Bồi thường dân sự là nghĩa vụ thực hiện thi hành án dân sự của đương sự trong quá trình tố tụng. Tuy nhiên, trong trường hợp đương sự không thể tự mình thực hiện bồi thường dân sự thì có được ủy quyền có bên thứ ba?
1. Ủy quyền cho bên thứ ba là gì?
Có thể hiểu đơn giản ủy quyền là việc giao cho người khác thay mặt mình sử dụng quyền và quyết định các vấn đề được ủy thác thông qua bằng văn bản ủy quyền.
Tại Điều 563 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định thời hạn ủy quyền do các bên thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định; nếu không có thỏa thuận và pháp luật không có quy định thì hợp đồng ủy quyền có hiệu lực 01 năm, kể từ ngày xác lập việc ủy quyền.
2. Bên thứ ba nhận ủy quyền có quyền và nghĩa vụ gì?
Cụ thể theo Điều 565, Điều 566 Bộ luật Dân sự 2015 quy định quyền và nghĩa vụ của bên được ủy quyền như sau:
(1) Nghĩa vụ của bên được ủy quyền
- Thực hiện công việc theo ủy quyền và báo cho bên ủy quyền về việc thực hiện công việc đó.
- Báo cho người thứ ba trong quan hệ thực hiện ủy quyền về thời hạn, phạm vi ủy quyền và việc sửa đổi, bổ sung phạm vi ủy quyền.
- Bảo quản, giữ gìn tài liệu và phương tiện được giao để thực hiện việc ủy quyền.
- Giữ bí mật thông tin mà mình biết được trong khi thực hiện việc ủy quyền.
- Giao lại cho bên ủy quyền tài sản đã nhận và những lợi ích thu được trong khi thực hiện việc ủy quyền theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật.
- Bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ.
(2) Quyền của bên được ủy quyền
- Yêu cầu bên ủy quyền cung cấp thông tin, tài liệu và phương tiện cần thiết để thực hiện công việc ủy quyền.
- Được thanh toán chi phí hợp lý mà mình đã bỏ ra để thực hiện công việc ủy quyền; hưởng thù lao, nếu có thỏa thuận.
3. Khi nào được ủy quyền lại khi bồi thường dân sự?
Để bảo đảm cho quyền và nghĩa vụ của các bên được thực hiện, pháp luật cho phép họ có thể ủy quyền lại cho người thứ ba thay mặt mình thực hiện các hành vi dân sự thông thường qua hợp đồng ủy quyền lại, Ủy quyền lại Điều 564 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:
- Bên được ủy quyền được ủy quyền lại cho người khác trong trường hợp sau đây:
+ Có sự đồng ý của bên ủy quyền;
+ Do sự kiện bất khả kháng nếu không áp dụng ủy quyền lại thì mục đích xác lập, thực hiện giao dịch dân sự vì lợi ích của người ủy quyền không thể thực hiện được.
- Việc ủy quyền lại không được vượt quá phạm vi ủy quyền ban đầu.
- Hình thức hợp đồng ủy quyền lại phải phù hợp với hình thức ủy quyền ban đầu.
Như vậy, trong trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường dân sự mà đương sự không thể trực tiếp thực hiện thì có thể ủy quyền cho bên thứ ba thay mình bồi thường dân sự.