Kinh tế ngày càng phát triển, việc một người sở hữu nhiều công ty, nhiều doanh nghiệp không phải là vấn đề mới. Tuy nhiên, với những điểm đặc thù của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên và doanh nghiệp tư nhân thì cần đặt nghi vấn là liệu chủ doanh nghiệp tư nhân có được thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên không?
Theo khoản 1 điều 74 Luật Doanh nghiệp 2020 thì “Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là doanh nghiệp do một tổ chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu (sau đây gọi là chủ sở hữu công ty). Chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty”. Qua quy định này có thể thấy chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên chịu trách nhiệm tài sản hữu hạn trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty, tức trong số tiền mà chủ sở hữu công ty góp vào.
Còn đối với doanh nghiệp tư nhân, theo quy định tại khoản 1 điều 188 Luật Doanh nghiệp 2020, doanh nghiệp tư nhân được định nghĩa: “Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp”. Như vậy, có thể thấy doanh nghiệp tư nhân chịu trách nhiệm tài sản vô hạn, tức do chủ doanh nghiệp tư nhân chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình. Điều này sẽ không phân định được tài sản của doanh nghiệp tư nhân và chủ doanh nghiệp tư nhân.
Khoản 3 điều 188 Luật Doanh nghiệp 2020 quy định chủ doanh nghiệp tư nhân không được là chủ hộ kinh doanh, thành viên hợp danh công ty hợp danh và mỗi một người chỉ được thành lập một doanh nghiệp tư nhân. Thiết nghĩ, vì chủ hộ kinh doanh, thành viên hợp danh công ty hợp danh cũng chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình và để bảo đảm nghĩa vụ tài chính nên pháp luật đã hạn chế quyền của chủ doanh nghiệp tư nhân. Hơn nữa, tại khoản 4 điều 188 Luật Doanh nghiệp 2020, quy định về quyền góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp tư nhân, cụ thể: “Doanh nghiệp tư nhân không được quyền góp vốn thành lập hoặc mua cổ phần, phần vốn góp trong công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần.”, quy định này chỉ đề cập đến việc hạn chế góp vốn thành lập công ty và mua cổ phần của doanh nghiệp tư nhân mà không quy định về chủ doanh nghiệp tư nhân.
Như vậy, có thể thấy pháp luật hiện hành không quy định về chủ doanh nghiệp tư nhân có được quyền thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hay không. Nếu pháp luật không quy định và chủ doanh nghiệp tư nhân thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên không trái với quy định pháp luật thì có quyền được thành lập công ty. Tuy nhiên, chủ doanh nghiệp tư nhân cần lưu ý vấn đề về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp để các giao dịch được xác lập đúng quy định pháp luật.