Theo luật sư Phan Anh, khi có chứng cứ chứng minh đầy đủ, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình, người vợ có thể khởi kiện để yêu cầu Tòa tuyên bố giao dịch đó của chồng là vô hiệu.
• Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.
• Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.
Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.
Ngoài ra, luật sư Bùi Phan Anh cho biết, quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung"
Bên cạnh đó, Điều 9, Điều 10 Nghị định
126/2014/NĐ-CP có hướng dẫn chi tiết quy định trên như sau:
Điều 9 Nghị định 126/2014/NĐ-CP giải thích thu nhập hợp pháp khác của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân. Theo đó, thu nhập hợp pháp khác của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân bao gồm:
•Khoản tiền thưởng, tiền trúng thưởng xổ số, tiền trợ cấp, trừ khoản trợ cấp, ưu đãi mà vợ, chồng được nhận theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng; quyền tài sản khác gắn liền với nhân thân của vợ, chồng.
•Tài sản mà vợ, chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật Dân sự đối với vật vô chủ, vật bị chôn giấu, bị chìm đắm, vật bị đánh rơi, bị bỏ quên, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước;
•Thu nhập hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.
Điều 10 Nghị định 126/2014/NĐ-CP giải thích về hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng như sau:
•Hoa lợi phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng là sản vật tự nhiên mà vợ, chồng có được từ tài sản riêng của vợ, chồng;
•Lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng là khoản lợi mà vợ, chồng thu được từ việc khai thác tài sản riêng của vợ, chồng
Ngoài ra quyền sử dụng đất có được sau khi kết hôn cũng là tài sản chung của vợ, chồng trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
Theo luật sư, phần tài sản chung này được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình và thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
Xác định Quyền sở hữu đối với tài sản chung
Luật sư Bùi Phan Anh cho biết, Điều 213 Bộ luật Dân sự 2015 thì vợ chồng sẽ cùng nhau tạo lập, cùng nhau phát triển và sẽ có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt khối tài sản chung.
Sở hữu chung tài sản của vợ chồng là sở hữu chung nhất có thể được phân chia.
Việc phân chia này sẽ do vợ chồng thỏa thuận. Căn cứ khoản 1 Điều 13 Nghị định 126/2014/NĐ-CP khi vợ hoặc chồng xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản chung để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì được coi là có sự đồng ý của bên kia.
Những tài sản phải đăng ký sở hữu chung của vợ chồng
Thỏa thuận định đoạt tài sản chung của vợ chồng những trường hợp sau đây phải bằng văn bản:
•Bất động sản;
•Động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu;
•Tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình.
Khi pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác, bao gồm:
•Quyền sử dụng đất;
•Những tài sản khác mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sử dụng, quyền sở hữu.
Luật sư Phan Anh cho biết thêm, muốn chứng minh phần tài sản chồng đem cho người khác là tài sản chung của vợ chồng, thì cần phải chứng minh rằng việc chồng lấy tài sản chung của hai vợ chồng để cho người khác trái với quy định của pháp luật như:
•Việc lấy tài sản chung cho người khác đấy của chồng không đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình;
•Lúc chồng cho người khác phần tài sản chung của vợ chồng nhưng vợ không đồng ý hoặc không biết;
Khi đã chứng minh được việc chồng lấy tài sản chung của vợ chồng để cho người khác là trái với pháp luật thì giao dịch của chồng lúc đó là giao dịch không hợp pháp và người vợ có quyền đề nghị Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu dựa theo Điều 117, 122, 123 Bộ luật Dân sự 2015.
Theo Nhịp Sống Việt