Các xung đột lợi ích giũa nhà quản lý công ty và các cổ đông thường có các biểu hiện như:
Nhà quản lý có xu hướng thích các dự án ngắn hạn hơn các dự án dài hạn với khả năng sinh lợi cao, bởi các dự án này có thể mang lại kết quả nhanh hơn và uy tín trong các dự án này cũng được tăng nhanh hơn đối ới địa vị của họ tại công ty.
Bên cạnh đó các nhà quản lý sẽ có xu hướng lựa chọn các dự án có độ rủi ro ít, lợi nhuận thấp để giảm tỷ lệ phá sản. Các nhà quản lý là những người do các cổ đông thuê vói một mức lương cố định nên việc công ty có lọi nhuận cao hay thấp điều không ảnh hưởng đến mức lương trong ngắn hạn của họ, vì thế chỉ cần quản lý tố dự án trong tay, thành công hoàn thành dự án mình lựa chọn và đem lại doanh thu cho công ty thì uy tín của họ sẽ được đảm bảo hơn là lựa chọn mạo hiểm để kéo uy tín của họ trong hồ sơ khi muốn chuyển đổi công việc.
Song song đó nhà quản lý thường chịu các áp lực rất lớn từ các cổ đông là phải hoàn thành các chỉ tiêu trong kinh doanh, đó là nghĩa vụ của họ khi giao kết hợp đồng với các ông chủ của công ty. Trong đó quan trọng nhất là các chỉ tiêu lợi nhuận. Nếu kết quả không như mong muốn, sự xung đột lợi ích có thể là tác nhân dẫn đến hành vi quản trị lợi nhuận của các nhà quản lý, đưa ra các thông tin sai sự thật về hoạt động kinh doanh trong các bản báo cáo tài chính cuối năm của công ty để đánh lừa cổ đông và các bên có quyền và lợi ích có liên quan.
Do đó cần có các giải pháp để gắng kết, dung hòa lợi ích của nhà quản lý và các cổ đông trong công ty cổ phần bằng các biện pháp sau:
Đầu tiên là việc ban hành các chính sánh lương, thưởng và phúc lợi thích hợp nhằm đảm bảo được lợi ích ngưởi quản lý để họ có thể ra sức vì lợi ích của các cổ đông. Các công cụ thúc đẩy hữu hiện nhất bao gồm: (i) Chế độ lương, thưởng gắn liền với quy mô lợi nhuận mà nhà quản lý tạo ra cho doanh nghiệp nhằm khuyến khích nhà quản lý nổ lực cao nhất trong công việc được giao. Công sức bỏ ra phải được trả lại tường xứng đó là phương pháp khuyến khích nhân lực tốt nhất của quản trị công ty hiện nay. Có thể trích phần trăm hoa hồng để trả cho một dự án nếu nhà quản lý và các nhân viên công ty làm việc hiệu quản và đem lại lợi nhuận cao cho công ty – đó là cách mà chúng ta thường nói tiền có cho đi thì người ta mới đem lại tiền cho mình. Có đầu tư mới có lợi nhuận. Đầu tư ở đâu ngoài đầu tư dự án còn là đầu tư phát triển người nhân lực của công ty, để nhân viên công ty có thể đem lại lợi ích lớn nhất cho công ty. Phúc lợi nhiều, tiền lương cao và thưởng lớn đó là điều kiện cần để thu hút người nhân tài đến đầu quân cho công ty cổ phần. (ii) Biến nhà quản lý trở thành đồng sở hữu (cổ đông) bằng các chế độ thưởng cố phiếu, chế độ ưu đãi quyền mua cổ phiếu của các nhà quản lý. Theo biện pháp này, nhà quản lý sẽ được cấp một số lượng hoặc mua được một lượng cổ phiếu nhất định để trở thành đồng sở hữu với các cổ đông của công ty. Mỗi quyền cho phép người nắm giữ được quyền mua đăng kí mua cổ phiếu nhất định ở một mức giá cố định khi công ty hoạt động hiệu quả và giá cổ phiếu của nó tăng lên. Do đó các nhà quản lý sẽ có động cơ để đưa ra các quyết định đúng đắn để làm tăng giá trị của công ty – hành động này sẽ đồng nhất với lợi ích của công ty vì này này nhà quản lý không còn đơn thuần là nhà quản lý làm việc theo hợp đồng với công ty nữa mà các nhà quản lý nhà đã trở thành các cổ đông những người đồng sở hữu của công ty. Tuy nhiên, phương pháp này gây ra hai hệu ứng cấu trúc sở hữu và hiệu quả hoạt động của công ty cổ phần: hiệu ứng hội tụ cho rằng phương pháp này có sự tương quan giữa vốn hóa của công ty cổ phần và tỉ trọng sở hữu của các nhà quản trị, còn hiệu ứng ngăn chặn cho rằng tương quan âm vì tỉ trọng sở hữu của nhà quản trị ngăn chặn việc kiểm soát công ty từ thị trường. Như vậy mặc dù có thể dung hòa được lợi ích của các cổ đông và người quản lý công ty nhưng lại nảy sinh vấn đề về quyền lợi giữa các cổ đông lới và các cổ đông nhỏ do mâu thuẫn lợi ích của các bên.
Bên cạnh đó ngoài việc có các chính sách khuyến khích chúng ta cũng cần tăng cường các biện pháp giám sát hoạt động của các nhà quản lý bằng cách thiết lập hệ thống kiểm toán nội bộ, hệ thống xử phát minh bạch và nghiêm khắc (thậm chí có thể sa thải hoặc khiện ra tòa) đối với những nhà quản lý không hoàn thành trách nhiệm được giao.
Ta có thể áp dụng mô hình quản lý của IBM. Đây có thể là một mô hình điển hình cho việc áp dụng kết hợp các biện pháp trên trong chế độ đãi ngộ của mình. Các nhà quản lý tại IBM được hưởng mức đãi ngộ dựa trên kết quả hoạt động của tập doàn, bao gồm ba tiêu chí: Cống hiến trong năm hiện tại (Current Year Performance) bao gồm lương và tiền thưởng phản ánh kết quả hoạt động điều hành trong vòng 12 tháng; Cống hiến trong dài hạn (Long – term Performance): chế độ thưởng dài hạn phản ánh kết quả hoạt động điều hành trong vòng ít nhất ba năm nhằm đảm bảo giũ vũng được kết quả hoạt động kinh doanh hiện tại của tập đoàn; Cống hiến trọn đời (Full career Performance): các khoản thưởng trả chậm, các khoản tích lũy lương hưu nhằm mục đích giữ chân các nhà điều hành hiện tại ở lại IBM hướng đến kết quả hoạt động trong dài hạn của các nhà quản lý, gắn bó chặt chẽ với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của các chủ sở hữu.
Ví dụ đối với giám đốc điều hành, lương cứng chiếm 8%, thưởng hàng năm chiếm 29%, còn lại thưởng cố phiếu chiếm đến 63% trong tổng mức thù lao.
Ngoài ra, tập đoàn cũng thiết lập một Ủy ban kiểm toán (Audit Committee). Hàng năm Ủy ban này đều có thảo luận với các kiểm toán viên nội bộ cũng như các kiểm toán viên độc lập của Pricewaterhouse Cooper (PwC) về quá trình báo cáo tài chính cũng như hệ thống kiểm soát nội bộ của tập đoàn. Điều này góp phần gia tăng độ tin cậy của các thông tin tài chính được cung cấp cũng như kiểm soát tốt hơn các hoạt động của Ban điều hành tập đoàn.
Vì vậy, quản trị công ty không chỉ là quản lý công ty hoạt động kinh doanh để thu được lợi nhuận cao nhất cho các cổ đông mà đôi khi chúng ta cần phải biết dung hòa được lợi ích của các bên khi muốn quản trị công ty cổ phần để có thể nâng cao và phát triển nguồn nhân lực của công ty góp phần tiền đề để người quản lý đưa ra các quyết định đúng đắn mang lại lợi ích về lâu dài cho công ty nói chung và các cổ đông nói riêng.