Chào bạn,
Liên quan đến vấn đề bạn đề cập, tôi có một vài thông tin cung cấp như sau:
Thời điểm bố mẹ vợ bạn nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ ông H là năm 1999. Theo Điều 30 Luật Đất đai 1993 (có hiệu lực tại thời điểm chuyển nhượng quyền sử dụng đất) thì đất sử dụng không có giấy tờ hợp pháp thuộc trường hợp không được chuyển quyền sử dụng đất. Do đó, việc chuyển nhượng này là không hợp pháp.
Về sau, Luật Đất đai 2003, Luật Đất đai 2013 và Luật Đất đai 2024 đều có chính sách về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất như đất đã được sử dụng ổn định theo thời gian tại Điều 50 Luật Đất đai 2003, Điều 101 Luật Đất đai 2013, Điều 138 Luật Đất đai 2024 được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch…
Tuy nhiên, ở đây bạn chưa cung cấp rõ thông tin về việc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông H được cấp năm nào và theo diện nào. Do vậy không đủ thông tin để khẳng định giữa bố mẹ vợ bạn và ông H thì ai mới là người đủ điều kiện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trước.
Nếu khởi kiện thì cần lưu ý hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bố mẹ vợ bạn và ông H vẫn có khả năng bị tuyên vô hiệu do nội dung của giao dịch trái pháp luật theo Điều 136 Bộ luật Dân sự 1995. Khi đó, theo Điều 146 Bộ luật Dân sự 1995 hợp đồng này không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên từ thời điểm xác lập. Các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật, thì phải hoàn trả bằng tiền. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường. Ngoài ra, tuỳ từng trường hợp, xét theo tính chất của giao dịch vô hiệu, tài sản giao dịch và hoa lợi, lợi tức thu được có thể bị tịch thu theo quy định của pháp luật.
Về vấn đề “lấn 1,3 sào đất” mà bạn đề cập, không rõ đây là thửa đất không có giấy chứng nhận mà bạn đã đề cập, hay là thửa đất nào khác nữa? Do chưa rõ thông tin nên trước mắt bạn có thể tham khảo Điều 228 Bộ luật Hình sự 2015:
“Điều 228. Tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai
1. Người nào lấn chiếm đất, chuyển quyền sử dụng đất hoặc sử dụng đất trái với các quy định của pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Tái phạm nguy hiểm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.”
Nếu ông H có dấu hiệu của tội phạm nêu trên thì bạn có thể tố giác với cơ quan công an gần nhất để được điều tra, xử lý.
Thông tin trao đổi cùng bạn!