Họ và tên: Tôi là Đỗ Thị Vượng năm nay 61 tuổi
Địa chỉ: Thôn Thu Quế -Xã Song Phượng - Đan Phượng - Hà Nội ( Điện thoại: 0996568220
Chồng tôi là: Tạ Văn Mùi (đã mất)
Tôi làm phiền luật sư nhiều thông cảm. Tôi già yếu không biết đường Hà Nội, lúc nào rảnh mới kêu con chơ đi được. Luật sư xem qua bằng chứng về luật xem có ích gì cho tôi không.
Đất của gia đình tôi thuộc diện đất vắng chủ vì chủ cũ ngôi nhà đã chết gần 70 năm chỉ có duy nhất cô con gái năm nay gần 100 tuổi chuyển vùng đi chỗ khác, hoặc ra nước ngoài theo chế độ cũ Mỹ Ngụy không rõ tung tích từ năm 1954. Gia đình tôi ở từ năm 1945 và được nhà nước giao cho quản lý từ năm 1957. Nay bị người cùng dòng họ xa của gia đình chồng cướp(ông cố của Bằng và ông cố bên chồng tôi là 2 cháu ruột của bà chủ cũ ngôi nhà)
Lý do có tờ đơn đề nghị của Bằng nộp lấy danh nghĩa con gái chủ cũ đòi nhà để tặng cho Bằng, điều đáng nói là Phó chủ tịch xã Nguyễn Huy Hoàn mới hơn 50 tuổi ký tờ đơn đề nghị ký vào giấy của người không có mặt ở đất nước Việt Nam và mất tích hơn 60 năm.
Sau đó là quyết định của UBND xã và huyện giao toàn bộ mảnh đất của gia đình tôi cho Bằng quản lý khi không có hồ sơ gì về đất.
Nhưng gia đình tôi trực tiếp ở từ năm 1945 đến nay và được nhà nước giao quản lý từ 1957 có giấy tờ từ năm 1957 và biên lai thu thuế từ năm 1986 đến nay, còn Bằng không ở ngày nào kể từ năm 1945 gia đình tôi ở đến nay. Theo một số nghị định của nhà nước thì có nghĩa gia đình tôi vẫn được quản lý.
Từ tháng 12/2013 Tạ Văn Bằng nhiều lần dùng vũ lực đánh mẹ con tôi đến tháng 5/2015 thì cướp được nhà.
Tháng 5/2015 tôi vào Nam chăm cháu ngoại còn nhỏ cho con gái đi làm. Bằng cưa khóa cổng , khóa nhà , ném hết bàn ghế giường tủ tôi ra đường và cướp nhà.
II. Bằng chứng, chứng minh chủ quyền của mảnh đất của gia đình tôi.
1. Về mặt giấy tờ chứng minh chủ quyền mang tính pháp lý.
1) Biên bản: “Quản lý nhà cửa đồ đạc của chị Quyền Thị Ngân ở xóm dân chủ Thu Quế -Ái Nam” Giao cho cụ Nguyễn Thị Cúc năm 1957
2) Thông báo giải quyết số 26 ngày 2.5.1984 của Viện kiểm soát phạt nhà Tạ Văn Bằng ( Vì ông này phá nhà của hai vợ chồng tôi" Tạ văn Mùi+ Đỗ Thị Vượng"
3) Biên lai thu thuế nhà đất từ năm 1986 đến nay.
2. Về mặt trực tiếp ở quản lý sử dụng đất:
Ở từ khi bà Quyền Thị Ngân con gái chủ cũ ngôi nhà bỏ di tản, chuyển vùng hoặc ra nước ngoài theo chế độ cũ năm 1954. Đến năm 1957 thì nhà nước giao cho bà nội của chồng Nguyễn Thị Cúc thì cũng trực tiếp ở và quản lý có kèm biên bản quản lý. Còn vợ chồng tôi thì trực tiếp ở từ năm 1982 đến 2014 có biên lai thu thuế từ năm 1986 đến 2014. Hàng xóm đều thấy gia đình tôi ở từ đời các cụ đến giờ.
3. Về mặt pháp luật thì có các nghị định và luật của nhà nước như:
a. Một số nghị định, Nghị quyết và luật liên quan đến đất vắng chủ, đất của người di tản chuyển vùng ra nước ngoài và quyền sở hữu của người quản lý đất trên 30 năm kể từ khi quản lý đến khi các nghị định văn bản, luật này có hiệu lực.
1) Theo Nghị quyết số 23/ 2003/QH11- ngày 26/11/2003
- Theo điều 1 và điều 2 đất này thuộc diện: Đất vắng chủ và đã thuộc nhà nước quản lý và đã giao cho gia đình tôi quản lý. Gia đình tôi đã ở 70 năm có thực hiện nghĩa vụ đóng thuế cho nhà nước.
Vì lý do bà Quyền Thị Ngân con gái chủ cũ ngôi nhà bỏ nhà di tản, chuyển vùng hoặc ra nước ngoài theo chế độ cũ từ năm 1954.( Theo mục 4 và mục 6 điều 1của nghị quyết này) đất gia đình tôi thuộc diện đất của người di tản chuyển vùng ra nước ngoài và đất vắng chủ d0 nhà nước quản lý và đã giao cho gia đình tôi ở và quản lý nên gia đình tôi là chủ sở hữu hợp pháp.
Bằng chứng:
- sổ mục kê từ năm 1965 đến 1978 đều ghi vắng chủ. Có năm 1990 ghi Xá- Mùi ở(có tên chồng tôi Nay bà Xá và chồng tôi đã mất). Bằng chứng nữa là Công Huyện đã điều tra tranh chấp đất nhà tôi và Tạ Văn Bằng đã hỏi cả người già 70-80 tuổi và mọi người dân đều biết gia đình tôi sống ở trên đất này từ đời các cụ nhà tôi đến giờ.
- Còn theo điều 3 của nghị định này thì đất của bà Ngân đã do nhà nước quản lý ( thuộc diện theo mục 4 và 6 điều 2 của nghị quyết này) thì khi muốn trở về nước có khó khăn về chỗ ở thì nhà nước tạo điều kiện cho họ cải thiện chỗ ở. Nhưng theo tờ “ Đơn đề nghị tặng đất”mà Bằng nộp thì bà Ngân không muốn về nước vì lí do đường xá xa xôi…cho nên bà khước từ chỗ ở Việt Nam và không có nhu cầu ở Việt Nam.
2) Theo nghị quyết số : 58/1998/NQ-UBTVQH10- ngày 20/8/1998
-Theo mục c khoản 2 và khoản 3, 4 điều 10 về quản lý nhà vắng chủ thì: Công nhận quyền sở hữu nhà ở đó cho người đang quản lý, sử dụng liên tục nhà ở đó từ 30 năm trở lên, kể từ ngày bắt đầu quản lý, sử dụng đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực. Vậy gia đình tôi sử dụng liên tục đến khi luật này có hiệu lực thì được 39 năm đến khi luật này có hiệu lực. Tôi là chủ sở hữu hợp pháp nhất của mảnh đất này.
Bằng chứng như sau:
+ Đã ghi ở phần trên: Về mặt giấy tờ chứng minh chủ quyền mang tính pháp lý.
3) Theo nghị định số 60- CP ngày 5/7/1994 về quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở đô thị - điều 121luật đất đai 2009
- Theo điều 22 người nước ngoài chấm dứt định cư ở Việt Nam mà không thực hiện các quyền ở điều 21 như: có nghĩa vụ đăng ký sở hữu nhà và các khoản theo quy định. Nếu không thực hiện nghĩa vụ trên thì sau 90 kể từ khi rời khỏi Việt Nam, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở đương nhiên mất giá trị và Nhà nước Việt Nam thực hiện quyền quản lý nhà và đất.
Vậy bà Ngân không có quốc tịch Việt Nam hơn 60 năm nay, hiện tại là quốc tịch Mỹ (theo tờ đơn đề nghị Bằng đã nộp)không thực hiện bất kỳ một nghĩa vụ nào theo quy định của nhà nước. Vậy bà Bình Thị Nguyễn có đủ điều kiện làm chủ sở hữu mảnh đất gia đình tôi ở và quản lý từ năm 1957 nhà nước giao cho không? Mà có thể tặng đất cho Bằng. Tôi còn không biết bà Bình Thị Nguyễn là ai. Vì giấy nhà nước giao cho gia đình tôi quản lý nhà đất của bà Quyền Thị Ngân.
- Vậy Bà Ngân đã mất quyền sở hữu từ lâu, chưa nói đến Bà Ngân Không có giấy tờ gì xác minh chủ quyền theo các nghị định và nghị quyết về đất của nhà nước, không đăng ký quyền sở hữu đất, không thực hiện nghĩa vụ tài chính với đất theo khoản a mục 2 điều 121 luật đất đai 2009 và có đủ điều kiện là chủ sở hữu mảnh đất không?
4) Theo điều 247 bộ luật dân sự 2005
- Gia đình tôi đã sở hữu mảnh đất này công khai, liên tục, ngay tình, được nhà nước giao cho quản lý nhà vắng chủ và đã thuộc nhà nước quản lý và đã giao cho gia đình tôi quản lý hoàn toàn phù hợp với luật này. Tính đến khi luật này có hiệu lực thì gia đình tôi ở liên tục công khai và được sự cho phép của nhà nước đã được 48 năm.
Bằng chứng như sau:
+ Đã ghi ở phần trên: Về mặt giấy tờ chứng minh chủ quyền mang tính pháp lý.
b. Một số nghị định và luật nhà đất tuy thuộc diện phải thực hiện các chính sách quy định tại Điều 2 của Nghị quyết số 23/2003/QH11 nhưng đến ngày Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 có hiệu lực thi hành, Nhà nước chưa có văn bản quản lý, chưa bố trí sử dụng nhà đất đó thì Nhà nước không tiếp tục thực hiện việc quản lý. Cho nên mảnh đất càng khẳng định gia đình tôi có đủ điều kiện làm giấychứng nhận quyền sở hữu đất:
1) Nghị định Số: 127/2005/NĐ-CP-ngày 10 tháng 10 năm 2005
- Theo Điều 2 của Nghị quyết số 23/2003/QH11 nhưng đến ngày Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 có hiệu lực thi hành, Nhà nước chưa có văn bản quản lý, chưa bố trí sử dụng nhà đất đó thì Nhà nước không tiếp tục thực hiện việc quản lý. Theo mục 1 và mục 3 của điều 4 thì gia đình tôi thuộc diện này. Vì hiện tại mảnh đất tôi thuộc diện đất của người di tản chuyển vùng ra nước ngoài và đất vắng chủ nhưng đến nay nhà nước vẫn chưa có văn bản nào quản lý.
- Theo mục 3 điều 4 và mục 2 điều 8 nhà đất đó có liên quan đến người Việt Nam ở nước ngoài thì việc giải quyết yếu tố nước ngoài được xác lập trước ngày 01 tháng 7 năm 1991.
- Vậy gia đình tôi có các giấy tờ và trực tiếp ở và được nhà nước giao quản lý từ năm 1957 tôi có đủ chủ quyền về mảnh đất này.
2) Nghị quyết số 755/2005/NQ UBTVQH11 Ngày 2/4/2005
- Theo Điều 2. Đối với các loại nhà đất mà Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 1 tháng 7 năm 1991 nhưng không quy định tại Nghị quyết này thì thực hiện theo quy định tại: Điều 1 và Điều 2 của Nghị quyết số 23/2003/QH11
- Vậy mảnh đất gia đình tôi đang quản lý trước đây nhà nước đã sử dụng để làm UBND, sau đó làm trường lớp mẫu giáo trong thời gian đó gia đình tôi vẫn ở đó. Mảnh đất tôi thuộc diện đất của người di tản chuyển vùng ra nước ngoài và đất vắng chủ và do nhà nước quản lý ngay khi vắng chủ.
- Theo điều 4 đất của gia đình tôi thuộc Điều 2 của Nghị quyết số 23/2003/QH11 nhưng đến khi Nghị quyết số 755/2005/NQ UBTVQH11 Ngày 2/4/2005 có hiệu lực thi hành nhà nước chưa có văn bản quản lý, chưa bố trí sử dụng nhà đất đó thì Nhà nước không thực hiện việc quản lý.Việc công nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất được thực hiện theo quy định của pháp luật.
- Vậy nhà nước đã không quản lý đất này kể từ khi Nghị quyết số 755/2005/NQ UBTVQH11 Ngày 2/4/2005 có hiệu lực thi hành mà do gia đình tôi là chủ sở hợp pháp hữu thông qua: Nghị quyết số: 58/1998/NQ-UBTVQH10- ngày 20/8/1998, ; Theo nghị định số 60- CP ngày 5/7/1994 ; điều 247 bộ luật dân sự 2005....Luật đất đai 2009- Luật đất đai 2013 thì gia đình tôi đủ điều kiện là chủ sở hữu hợp pháp rất mong cơ quan chức năng điều tra xem xét lấy lại sự công bằng cho gia đình tôi.
Tôi viết đơn lên xã-Huyện- Thành phố nhiều lần chỉ trả lời 1 lần nhưng không thỏa đáng. Tôi cứ gửi lên Thành phố thì bảo huyện giải quyết, xuống Huyện trả lời 1 lần nói không có quyền lợi gì? và nhiều lần tôi gửi vòng quanh thì nhận đơn và không trả lời. Vậy đất gia đình tôi được nhà nước giao cho từ năm 1957 và có giấy tờ kèm theo, trực tiếp ở từ năm 1945 để cho người bà con họ xa không ở ngày nào đến cướp có đúng không.
- Hằng ngày tôi chỉ biết ngắm nhìn mấy mảnh giấy này. Tôi Người đàn góa năm nay hơn 60 tuổi chịu nhiều nỗi đau chồng mất sớm, một tay chăm 3 đứa con nhỏ bơ vơ không nơi nương tựa nay có mảnh đất cũng không giữ được cũng không biết làm sao...đành phó mặc cho số trời.