Chào em,
Vấn đề em hỏi, luật sư Đào Thị Liên công ty Luật Tiền Phong xin được tư vấn cho em như sau:
1. Luật Lao động hiện hành quy định về trường hợp người sử dụng lao động được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động:
a) Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động;
b) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 12 tháng liên tục đối với người làm theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, đã điều trị 06 tháng liên tục, đối với người lao động làm theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và quá nửa thời hạn hợp đồng lao động đối với người làm theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa hồi phục.
Khi sức khỏe của người lao động bình phục, thì người lao động được xem xét để tiếp tục giao kết hợp đồng lao động;
c) Do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác theo quy định của pháp luật, mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc;
d) Người lao động không có mặt tại nơi làm việc sau 15 ngày kể từ ngày thời hạn tạm hoãn hợp đồng lao động chấm dứt.
Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động không xác định thợi hạn, người sử dụng lao động phải báo trước 45 ngày.
Những trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động không thỏa mãn những quy định trên sẽ bị coi là đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái luật.
2. Hậu quả của việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái luật (điều 42 luật Lao động):
"1. Phải nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết và phải trả tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong những ngày người lao động không được làm việc cộng với ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.
2. Trường hợp người lao động không muốn tiếp tục làm việc, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này người sử dụng lao động phải trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này (người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương, tiền lương để tính trợ cấp thôi việc là tiền lương bình quân theo hợp đồng lao động của 06 tháng liền kề trước khi người lao động thôi việc).
3. Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động và người lao động đồng ý, thì ngoài khoản tiền bồi thường (mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương), hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm nhưng ít nhất phải bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động.
4. Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong hợp đồng lao động mà người lao động vẫn muốn làm việc thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này, hai bên thương lượng để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động.
5. Trường hợp vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước."
Nếu em không đồng ý với quyết định của người sử dụng lao động em có quyền khởi kiện ra tòa án nhân cấp cấp tỉnh nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính để giải quyết. Thời hiệu để khởi kiện vụ án lao động là 12 tháng. Tại thời điểm khởi kiện vụ án lao động được giải quyết, em sẽ được yêu cầu doanh nghiệp phải trả lương cho em trong những ngày không được làm việc theo hợp đồng lao động và các quyền lợi khác được nêu ở phần trên.
3. Về bảo hiểm thất nghiệp khi bị chấm dứt hợp đồng lao động:
Điều 81 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 quy định: người thất nghiệp được hưởng BHTN khi có đủ các điều kiện: 1. Đã đóng BHTN đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi thất nghiệp; 2. Đã đăng ký thất nghiệp với tổ chức bảo hiểm xã hội; 3. Chưa tìm được việc làm sau 15 ngày kể từ ngày đăng ký thất nghiệp theo quy định tại khoản 2, Điều 81.
Khoản 2, Điều 2, thông tư số 04/2013/TT-BLĐTBXH ngày 1.3.2013 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sửa đổi, bổ sung một số điều của thông tư số 32/2010/TT-BLĐTBXH ngày 25.10.2010 của Bộ LĐTBXH hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 127/2008/NĐ-CP ngày 12.12.2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về BHTN quy định:
Người thất nghiệp được hưởng BHTN khi có đủ các điều kiện theo quy định tại Điều 15 của Nghị định số 127/2008/NĐ-CP đã sửa đổi, bổ sung được hướng dẫn thực hiện như sau:
a) Đã đóng BHTN từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc theo đúng quy định của pháp luật (tháng đóng BHTN của người lao động được tính nếu người sử dụng lao động và người lao động đã đóng BHTN, người lao động đã thực hiện hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc ít nhất 1 ngày trong tháng đó);
b) Đã đăng ký thất nghiệp với trung tâm giới thiệu việc làm thuộc sở lao động - thương binh và xã hội tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây được viết tắt là Trung tâm Giới thiệu việc làm) khi mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc theo quy định của pháp luật;
Đối chiếu quy định trên, ông đã đóng BHTN đủ 12 tháng trong 24 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động (từ tháng 4.2011 đến hết tháng 3.2013) và nếu ông đáp ứng các điều kiện còn lại thì ông đủ điều kiện hưởng BHTN.
Mức hưởng trợ cấp thất nghiệp được quy định tại điều 82 Luật bảo hiểm xã hội như sau:
“1. Mức trợ cấp thất nghiệp hằng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của sáu tháng liền kề trước khi thất nghiệp.
2. Thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp được quy định như sau:
a) Ba tháng, nếu có từ đủ mười hai tháng đến dưới ba mươi sáu tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp;
b) Sáu tháng, nếu có từ đủ ba mươi sáu tháng đến dưới bảy mươi hai tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp;
c) Chín tháng, nếu có từ đủ bảy mươi hai tháng đến dưới một trăm bốn mươi bốn tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp;
d) Mười hai tháng, nếu có từ đủ một trăm bốn mươi bốn tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp trở lên.
Trên đây là những tư vấn của luật sư, hi vọng giúp em làm sáng tỏ được vấn đề mà em đang quan tâm. Nếu em còn băn khoăn hoặc cần tư vấn thêm, em có thể điện thoại về tổng đài tư vấn pháp luật của Luật Tiền Phong số 04-1088/4/3 để được trợ giúp.
Trân trọng./.
Cập nhật bởi daolienluatsu ngày 12/11/2013 05:40:03 CH
hiệu chỉnh văn bản