Toàn bộ thông tin về kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV

Chủ đề   RSS   
  • #546447 20/05/2020

    shin_butchi
    Top 50
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:18/04/2015
    Tổng số bài viết (1913)
    Số điểm: 87629
    Cảm ơn: 836
    Được cảm ơn 1904 lần


    Toàn bộ thông tin về kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV

     

    Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV: 10 dự án luật dự kiến trình Quốc hội xem xét, thông qua

    Theo thông báo về dự kiến chương trình và nội dung của kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XIV tại buổi họp báo về dự kiến chương trình Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XIV tổ chức vào chiều ngày 18/5, dự kiến tại Kỳ họp này, Quốc hội sẽ xem xét, thông qua 10 dự án luật gồm

    1. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội

    2. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật

    3. Luật Thanh Niên (sửa đổi)

    4. Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP)

    5. Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án

    6. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp

    7. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống thiên tai và Luật Đê điều

    8. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xây dựng

    9. Luật Đầu tư (sửa đổi)

    10. Luật Doanh nghiệp (sửa đổi)

    Nội dung chi tiết sẽ được cập nhật tại topic này, mọi người cập nhật nhé!

     

     

     
    11883 | Báo quản trị |  
    1 thành viên cảm ơn shin_butchi vì bài viết hữu ích
    lslehoangchuong (17/06/2020)

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận
  • #546454   20/05/2020

    shin_butchi
    shin_butchi
    Top 50
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:18/04/2015
    Tổng số bài viết (1913)
    Số điểm: 87629
    Cảm ơn: 836
    Được cảm ơn 1904 lần


    Đề xuất Quốc hội dừng tăng lương cho cán bộ, công chức từ ngày 1.7.2020

     

    Đó là một trong những đề xuất quan trọng được Thủ tướng báo cáo tại phiên khai mạc Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá XIV sáng nay, 20.5.

    Trước đó, liên quan tới lương cơ sở cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang, Bộ Nội vụ cho biết, mức lương cơ sở hiện nay là 1.490.000 đồng/tháng mới đạt 42,39% so với mức lương tối thiểu vùng bình quân năm 2019 (3.515.000 đồng/tháng) và đạt 40,16% so với mức lương tối thiểu vùng bình quân năm 2020 (3.710.000 đồng/tháng).

    Tuy điều kiện ngân sách nhà nước còn nhiều khó khăn nhưng để cải thiện đời sống của cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 86/2019/QH14, trong đó quy định: “Thực hiện điều chỉnh mức lương cơ sở từ 1.490.000 đồng tháng lên 1.600.000 đồng/tháng, điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp hàng tháng theo quy định và trợ cấp ưu đãi người có công với cách mạng tăng bằng mức lương cơ sở, thời điểm thực hiện từ ngày 1.7.2020”.

    Theo kế hoạch, nguồn chi tăng lương vào khoảng hơn 60.000 tỉ đồng từ nguồn tăng thu ngân sách trong năm 2019. Tuy nhiên, trước những khó khăn, tác động tiêu cực đại dịch Covid-19, để chia sẻ người lao động, theo Thủ tướng, Chính phủ đã thống nhất trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến về việc tạm dừng tăng lương.

    Báo cáo thêm về việc phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội trong trạng thái bình thường mới, Thủ tướng cho biết phải dập dịch đã khó, song để duy trì phát triển kinh tế còn khó hơn nhiều. Do đó, cần hoá giải nguy cơ, biến thành cơ hội, tận dụng lợi thế kiểm soát dịch bệnh, uy tín quốc tế được nâng lên. “Việt Nam nỗ lực vượt lên nhanh, rút ngắn khoảng cách với thế giới hướng tới mục tiêu nước phát triển công nghiệp vào 2045”, Thủ tướng nhấn mạnh.

    Bên cạnh đó, Thủ tướng lưu ý, cần đổi mới tư duy, phát triển, nâng cao năng lực, tìm mô hình phát triển mới, đón xu hướng dịch chuyển đầu tư toàn cầu. Chủ động tham gia các chuỗi sản xuất, cung ứng, song hành với sức mạnh nội địa của gần 100 triệu người dân.

    Theo Báo Thanh niên

    Cập nhật bởi shin_butchi ngày 20/05/2020 10:58:33 SA
     
    Báo quản trị |  
  • #546517   20/05/2020

    ntdieu
    ntdieu
    Top 10
    Male
    Dân Luật bậc 1

    Đồng Nai, Việt Nam
    Tham gia:11/02/2009
    Tổng số bài viết (14967)
    Số điểm: 100030
    Cảm ơn: 3514
    Được cảm ơn 5367 lần
    SMod

    Nội dung nâng mức giảm trừ gia cảnh của luật thuế TNCN không được xem xét trong kỳ họp này sao???

     
    Báo quản trị |  
  • #548834   10/06/2020

    MinhPig
    MinhPig
    Top 75
    Female
    Lớp 12

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:06/04/2018
    Tổng số bài viết (804)
    Số điểm: 20259
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 767 lần


    Thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp

     

    Với 92,96% tổng số đại biểu Quốc hội tán thành, trong phiên họp chiều nay, 10.6, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp.

    Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp được bổ sung một điều; sửa đổi, bổ sung nội dung 26 điều và chỉnh lý kỹ thuật 3 điều.

    Cụ thể, Luật đã bổ sung quy định: “Phòng giám định kỹ thuật hình sự thuộc Viện kiểm sát Nhân dân tối cao thực hiện giám định về âm thanh, hình ảnh từ các dữ liệu điện tử. Căn cứ vào nhu cầu và điều kiện thực tế của địa phương, Phòng kỹ thuật hình sự thuộc Công an cấp tỉnh có giám định viên pháp y thực hiện giám định pháp y tử thi.”

    Để bảo đảm tính thống nhất, Luật cũng đã bổ sung quy định: “Viện trưởng Viện kiểm sát Nhân dân tối cao quy định chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Phòng Giám định kỹ thuật hình sự thuộc Viện kiểm sát Nhân dân tối cao, trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn.” (Khoản 7, Điều 12).

    Về thời hạn giám định tư pháp trong trường hợp trưng cầu giám định, Luật quy định thời hạn giám định tư pháp được tính từ ngày tổ chức, cá nhân được trưng cầu giám định nhận được quyết định trưng cầu giám định và kèm theo đầy đủ hồ sơ, đối tượng giám định, thông tin, tài liệu, đồ vật, mẫu vật cần thiết cho việc giám định (Khoản 1, Điều 26a). Thời hạn giám định tư pháp đối với các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự (Khoản 2, Điều 26a). Thời hạn giám định tư pháp đối với các trường hợp không thuộc quy định tại Khoản 2, Điều 26a tối đa là 3 tháng. Trường hợp vụ việc giám định có tính chất phức tạp hoặc khối lượng công việc lớn thì thời hạn giám định tối đa là 4 tháng…

    Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1.1.2021.

    Theo Báo điện tử đại biểu nhân dân

     

     
    Báo quản trị |  
  • #548835   10/06/2020

    MinhPig
    MinhPig
    Top 75
    Female
    Lớp 12

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:06/04/2018
    Tổng số bài viết (804)
    Số điểm: 20259
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 767 lần


    Thông qua Nghị quyết Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2021

     

    Với 94% tổng số đại biểu Quốc hội tán thành, trong phiên họp chiều nay, 10.6, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2021, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020.

    Theo đó, Quốc hội quyết định bổ sung vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020 các dự án, dự thảo, gồm Luật Giao thông đường bộ (sửa đổi); Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn đều cho ý kiến tại Kỳ họp thứ Mười. Ngoài ra, còn bổ sung Nghị quyết của Quốc hội về tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hợp quốc (cho ý kiến và thông qua tại Kỳ họp thứ Mười theo quy trình tại một kỳ họp); Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng (sửa đổi). Đồng thời, điều chỉnh thời gian trình đối với dự án Luật Thi đua, khen thưởng (sửa đổi) từ Chương trình cho ý kiến tại Kỳ họp thứ Mười, Quốc hội khóa XIV (tháng 10.2020) sang cho ý kiến tại Kỳ họp thứ Hai, Quốc hội khóa XV (tháng 1.2021).

    Về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2021, tại Kỳ họp thứ Mười một sẽ trình Quốc hội khóa XIV thông qua 4 dự án luật, gồm: Luật Giao thông đường bộ (sửa đổi); Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) và không trình Quốc hội cho ý kiến về dự án luật nào.

    Tại Kỳ họp thứ Hai, Quốc hội khóa XV không trình Quốc hội thông qua dự án luật nào, mà chỉ trình Quốc hội cho ý kiến 6 dự án luật, gồm: Luật Cảnh sát cơ động; Luật Điện ảnh (sửa đổi); Luật Kinh doanh bảo hiểm (sửa đổi); Luật Thanh tra (sửa đổi); Luật Thi đua, khen thưởng (sửa đổi); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ.

    Nghị quyết nêu rõ, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền đề cao trách nhiệm, thực hiện nghiêm Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh đã được Quốc hội quyết định, tăng cường kỷ luật, kỷ cương, bảo đảm tuân thủ đầy đủ quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong công tác xây dựng pháp luật. Không trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội dự án, dự thảo không bảo đảm đầy đủ hồ sơ, tài liệu, không bảo đảm chất lượng và tiến độ; kiểm điểm, xác định rõ nguyên nhân, trách nhiệm trong việc không hoàn thành nhiệm vụ soạn thảo được giao, phải lùi, rút dự án, dự thảo ra khỏi Chương trình để báo cáo Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội; đồng thời có giải pháp kiên quyết xử lý để tiến tới chấm dứt tình trạng này.

    Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội cần đề cao trách nhiệm, chủ động, tích cực trong việc tham gia thẩm tra về những nội dung của dự án, dự thảo có liên quan đến lĩnh vực do mình phụ trách, góp phần nâng cao chất lượng của văn bản. Tăng cường trách nhiệm và sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan chủ trì thẩm tra với cơ quan tham gia thẩm tra, Thường trực Ủy ban Pháp luật, cơ quan soạn thảo, Bộ Tư pháp và các cơ quan hữu quan trong việc tiếp thu, chỉnh lý dự thảo. Đồng thời, theo dõi, đôn đốc việc chuẩn bị các dự án, dự thảo thuộc lĩnh vực phụ trách và giám sát việc triển khai thực hiện các văn bản đó sau khi được thông qua. Đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội dành thời gian thỏa đáng để nghiên cứu, tham khảo ý kiến của các cơ quan, tổ chức ở địa phương, các chuyên gia, nhà khoa học và cử tri, nhất là lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp; tổ chức thảo luận, tham gia ý kiến góp phần hoàn thiện dự án, dự thảo…

    Theo Báo điện tử đại biểu nhân dân

     

     
    Báo quản trị |  
    1 thành viên cảm ơn MinhPig vì bài viết hữu ích
    ThanhLongLS (10/06/2020)
  • #548849   10/06/2020

    MinhPig
    MinhPig
    Top 75
    Female
    Lớp 12

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:06/04/2018
    Tổng số bài viết (804)
    Số điểm: 20259
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 767 lần


    Quốc hội thông qua miễn thuế đất nông nghiệp thêm 5 năm

    Chiều nay (10/6), Quốc hội đồng ý kéo dài thời gian miễn thuế đất nông nghiệp thêm 5 năm, tới năm 2025.

    Đề xuất miễn thuế đất nông nghiệp đến năm 2025

    Với 95,24% đại biểu tham gia biểu quyết tán thành, Quốc hội vừa thông qua Nghị quyết về kéo dài thời gian miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp tới năm 2025. Nghị quyết có hiệu lực từ 1/1/2021.

    Báo cáo giải trình, tiếp thu trước đó, ông Nguyễn Đức Hải - Chủ nhiệm Uỷ ban Tài chính ngân sách cho biết, một số ý kiến đề nghị rà soát đối tượng miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp và bổ sung các quy định quản lý đất đai vào dự thảo Nghị quyết để tránh tình trạng lợi dụng, hoang hoá ruộng đất...

    Cơ quan thường trực Quốc hội cho rằng, quản lý đất đai được quy định trong Luật Đất đai 2013, theo đó xác định một số loại đất nông nghiệp không được sử dụng trong thời gian nhất định là những hành vi vi phạm pháp luật và phải thu hồi đất.

    Do đó, để tránh tình trạng giữ đất để được miễn thuế nhưng không canh tác, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong quản lý đất đai. Quy định này sẽ không được nêu chi tiết trong Nghị quyết miễn giảm thuế đất nông nghiệp tới 2025.

    Chính sách miễn giảm thuế được thực hiện lần đầu theo Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp năm 1993, sau đó nhiều lần điều chỉnh và mở rộng đối tượng được ưu đãi.

    Giai đoạn 2003-2010, số thuế miễn giảm thuế bình quân mỗi năm gần 3.270 tỷ đồng. Trong 5 năm tiếp theo, số thuế bình quân được miễn tăng gần gấp đôi lên 6.300 tỷ đồng. Gần nhất là giai đoạn 2017-2018 và dự kiến đến hết năm nay, số thuế được miễn giảm mỗi năm khoảng 7.440 tỷ đồng.

    Theo Vnexpress

     
    Báo quản trị |  
  • #548907   11/06/2020

    MinhPig
    MinhPig
    Top 75
    Female
    Lớp 12

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:06/04/2018
    Tổng số bài viết (804)
    Số điểm: 20259
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 767 lần


    Bà Nguyễn Thị Kim Ngân làm Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia

     

    Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân được bầu làm Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia với 462/462 đại biểu có mặt tán thành.

    Quốc hội biểu quyết thông qua nghị quyết nêu trên, sáng 11/6. Theo quy định, Hội đồng bầu cử quốc gia sẽ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội; chỉ đạo, hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.

    Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia chịu trách nhiệm trước Quốc hội về hoạt động của Hội đồng bầu cử quốc gia; thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn như: Trình danh sách các Phó chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, các Ủy viên Hội đồng bầu cử quốc gia để Quốc hội phê chuẩn; triệu tập và chủ trì các cuộc họp của Hội đồng bầu cử quốc gia; lãnh đạo và điều hành công việc của Hội đồng bầu cử quốc gia...

    Ngày bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026 dự kiến là Chủ nhật, 23/5/2021. Tại hội nghị lần thứ 12 (khoá XII) vừa qua, Trung ương thống nhất phấn đấu sẽ bầu đủ 500 đại biểu Quốc hội và đạt tỉ lệ đại biểu Quốc hội chuyên trách.

    Đối với các trường hợp tự ứng cử, Trung ương nêu phải có quy trình thật chặt chẽ, đúng quy định của Hiến pháp và pháp luật; quy định rõ việc gì được làm, việc gì không được làm trong vận động bầu cử; tránh tình trạng "vận động" không lành mạnh.

    Căn cứ vào nghị quyết hội nghị Trung ương 12 (khoá XII), Bộ Chính trị sẽ ban hành chỉ thị; chỉ đạo Đảng đoàn Quốc hội khẩn trương hoàn chỉnh đề án trình Quốc hội xem xét, quyết định để tổ chức thực hiện, bảo đảm chuẩn bị và tổ chức thành công cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026.

    Bà Nguyễn Thị Kim Ngân, 66 tuổi, quê ở Bến Tre; ủy viên Trung ương khóa IX, X, XI, XII; Bí thư Trung ương Đảng khóa XI; ủy viên Bộ Chính trị khóa XI, XII; đại biểu Quốc hội khóa XII, XIII, XIV.

    Bà Ngân từng đảm nhiệm vị trí Giám đốc Sở Tài chính tỉnh Bến Tre, Thứ trưởng Tài chính, Bí thư Tỉnh ủy Hải Dương, Thứ trưởng Thương mại, Bộ trưởng Lao động, Thương binh và Xã hội; Phó chủ tịch Quốc hội từ năm 2011. Tháng 3/2016, bà được bầu làm Chủ tịch Quốc hội.

    Theo Vnexpress

     

     
    Báo quản trị |  
  • #549321   16/06/2020

    MinhPig
    MinhPig
    Top 75
    Female
    Lớp 12

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:06/04/2018
    Tổng số bài viết (804)
    Số điểm: 20259
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 767 lần


    Thông qua Luật Thanh niên (sửa đổi)

     

    Với 91,3% tổng số đại biểu Quốc hội tán thành, trong phiên họp chiều nay, 16.6, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật Thanh niên (sửa đổi).

    Theo đó, thanh niên là công dân Việt Nam từ đủ 16 tuổi đến 30 tuổi. Với 7 Chương, 41 Điều, Luật quy định về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của thanh niên; chính sách của Nhà nước đối với thanh niên; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức thanh niên, tổ chức khác, cơ sở giáo dục, gia đình và cá nhân đối với thanh niên; quản lý nhà nước về thanh niên. Đồng thời, được áp dụng đối với thanh niên; cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình và cá nhân.

    Bên cạnh các quy định về nguyên tắc bảo đảm thực hiện quyền, nghĩa vụ của thanh niên và chính sách của Nhà nước đối với thanh niên thì Luật còn quy định tháng 3 hàng năm là Tháng Thanh niên. Tháng Thanh niên được tổ chức nhằm phát huy tinh thần xung kích, tình nguyện, sáng tạo của thanh niên để tham gia hoạt động vì lợi ích của cộng đồng, xã hội và vận động tổ chức, cá nhân đầu tư, phát triển thanh niên. Trong đó, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan tổ chức hoạt động Tháng Thanh niên. Chính phủ, chính quyền địa phương các cấp có trách nhiệm tạo điều kiện về cơ chế, chính sách, nguồn lực để hỗ trợ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh cùng cấp tổ chức hoạt động Tháng Thanh niên. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tạo điều kiện, hỗ trợ cho thanh niên tham gia hoạt động Tháng Thanh niên.

    Để bảo đảm chất lượng và hiệu quả của hoạt động đối thoại với thanh niên, tránh việc tổ chức đối thoại một cách tràn lan, hình thức, gây lãng phí về thời gian và nguồn lực, Luật cũng đã quy định: “Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm đối thoại với thanh niên ít nhất mỗi năm một lần về các vấn đề liên quan đến thanh niên; người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị lực lượng vũ trang có trách nhiệm đối thoại với thanh niên theo yêu cầu của tổ chức thanh niên quy định tại Luật này.”

    Theo báo điện tử Đại biểu nhân dân

     

     
    Báo quản trị |  
  • #549322   16/06/2020

    MinhPig
    MinhPig
    Top 75
    Female
    Lớp 12

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:06/04/2018
    Tổng số bài viết (804)
    Số điểm: 20259
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 767 lần


    Thông qua Luật Hòa giải, đối thoại tại tòa án

     

    Với 90,27% tổng số đại biểu Quốc hội tán thành, trong phiên họp chiều nay, 16.6, Quốc hội đã biểu thông qua Luật Hòa giải, đối thoại tại tòa án.

     Theo đó, Luật Hòa giải, đối thoại tại tòa án gồm 4 Chương, 42 Điều, quy định nguyên tắc, chính sách của Nhà nước về hòa giải, đối thoại tại Tòa án; quyền, nghĩa vụ của Hòa giải viên tại Tòa án, các bên tham gia hòa giải, đối thoại tại Tòa án; trách nhiệm của Tòa án đối với công tác hòa giải, đối thoại; trình tự, thủ tục hòa giải, đối thoại; công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án.

    Hòa giải, đối thoại theo quy định của Luật này được thực hiện trước khi Tòa án thụ lý đơn khởi kiện vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; đơn yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn; đơn khởi kiện vụ án hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính. Đồng thời, không áp dụng đối với hoạt động hòa giải, đối thoại đã được luật khác quy định.

    Tại Luật này, Nhà nước khuyến khích các bên giải quyết vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính bằng hình thức hòa giải, đối thoại tại Tòa án; khuyến khích những người đủ điều kiện theo quy định của Luật này làm Hòa giải viên và tạo điều kiện, hỗ trợ cho công tác hòa giải, đối thoại tại Tòa án.

    Nhà nước bảo đảm kinh phí cho công tác hòa giải, đối thoại tại Tòa án từ ngân sách nhà nước và các nguồn kinh phí hợp pháp khác theo quy định của pháp luật. Kinh phí cho công tác hòa giải, đối thoại tại Tòa án do Chính phủ trình Quốc hội quyết định sau khi thống nhất với Tòa án nhân dân tối cao. Đồng thời, Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm cho công tác hòa giải, đối thoại tại Tòa án.

    Luật cũng quy định, Tòa án Nhân dân tối cao có trách nhiệm tổ chức, quản lý hoạt động hòa giải, đối thoại theo quy định của Luật này. Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng hòa giải, đối thoại tại Tòa án; quy định trình tự, thủ tục cấp, thu hồi và việc sử dụng thẻ Hòa giải viên. Phối hợp với Chính phủ trong việc trình Quốc hội quyết định kinh phí cho công tác hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Hướng dẫn, kiểm tra việc quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí cho công tác hòa giải, đối thoại tại Tòa án theo quy định của pháp luật. Kiểm tra việc thực hiện và xử lý vi phạm trong hoạt động hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Giải quyết khiếu nại lần hai đối với quyết định của Chánh án Tòa án Nhân dân cấp tỉnh về xử lý vi phạm đối với Hòa giải viên. Báo cáo Quốc hội về hoạt động hòa giải, đối thoại tại Tòa án trong báo cáo công tác hàng năm. Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của Luật này.

    Theo báo điện tử Đại biểu nhân dân

     

     
    Báo quản trị |  
  • #549365   17/06/2020

    lamkylaw
    lamkylaw
    Top 100
    Lớp 10

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:31/10/2018
    Tổng số bài viết (660)
    Số điểm: 14232
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 612 lần


    Tiếp tục Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XIV, sáng ngày 17/6, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển, Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Doanh nghiệp (sửa đổi).

    Kết quả cho thấy 90,68% đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành với việc thông qua Luật Doanh nghiệp (sửa đổi). Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển nêu rõ: Với đa số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành, Quốc hội chính thức thông qua Luật Doanh nghiệp (sửa đổi).

    Trước đó, báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) do Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh trình bày nêu rõ: Tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội đã thảo luận tại Hội trường về dự án Luật Doanh nghiệp (sửa đổi). Trên cơ sở ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội (ĐBQH), ý kiến các cơ quan của Quốc hội và Báo cáo số 291/BC-CP ngày 12/6/2020 của Chính phủ về việc giải trình, tiếp thu ý kiến ĐBQH, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo Cơ quan chủ trì thẩm tra, Cơ quan soạn thảo và các cơ quan hữu quan nghiên cứu tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật.

    Về thông báo mẫu dấu của doanh ngiệp (Điều 43): Một số ý kiến đồng ý việc bỏ thủ tục thông báo mẫu dấu với Cơ quan đăng ký kinh doanh; một số ý kiến khác đồng ý giữ quy định yêu cầu phải thông báo mẫu dấu cho Cơ quan đăng ký kinh doanh như quy định của Luật hiện hành. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã gửi phiếu xin ý kiến các vị đại biểu Quốc hội. Trên cơ sở đa số ý kiến ĐBQH, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin tiếp thu không quy định thủ tục thông báo mẫu dấu với Cơ quan đăng ký kinh doanh trong dự thảo Luật.

    Về hộ kinh doanh (Chương VIIa): Một số ý kiến đồng ý với việc quy định một chương về hộ kinh doanh trong dự thảo Luật; một số ý kiến khác đồng ý xem xét, ban hành một luật riêng về hộ kinh doanh. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã gửi phiếu xin ý kiến các vị đại biểu Quốc hội. Trên cơ sở đa số ý kiến ĐBQH, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin tiếp thu theo hướng bỏ quy định tại Chương VIIa về hộ kinh doanh; bỏ quy định về chuyển hộ kinh doanh thành doanh nghiệp (Điều 199a). Đồng thời, để bảo đảm tính liên tục cho đến khi ban hành một luật riêng về hộ kinh doanh, cần thiết giao Chính phủ hướng dẫn đăng ký và hoạt động đối với hộ kinh doanh (khoản 4 Điều 217 quy định về điều khoản thi hành).

    Về doanh nghiệp nhà nước (Điều 88): Một số ý kiến cho rằng khái niệm doanh nghiệp nhà nước như tại dự thảo Luật (doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ) là chưa phù hợp. Khái niệm doanh nghiệp nhà nước đã thay đổi liên tục, không bảo đảm tính nhất quán, tác động đến cách thức quản lý của các doanh nghiệp, tạo ra sự khác biệt trong cách thức quản lý với các doanh nghiệp khác.

    Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo: Quy định Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) gồm các doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, tổng số cổ phần có quyền biểu quyết như dự thảo Luật nhằm thể chế hóa chủ trương về tỷ lệ cổ phần, vốn góp chi phối của Nhà nước theo Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 khóa XII về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN (Nghị quyết số 12). Dự thảo Luật đã sửa đổi khái niệm doanh nghiệp nhà nước theo nguyên tắc phân chia các loại doanh nghiệp có sở hữu nhà nước theo mức độ sở hữu khác nhau, mỗi loại hình doanh nghiệp có quy định về tổ chức quản trị phù hợp để nâng cao hiệu lực quản trị, công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình, bảo đảm bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.

    Ngoài ra, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo việc rà soát các luật có liên quan về DNNN để bảo đảm đồng bộ trong hệ thống pháp luật, có hiệu lực thi hành cùng Luật Doanh nghiệp (sửa đổi). Do vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội cho giữ quy định này như dự thảo Luật đã được hoàn thiện, chỉnh lý trình Quốc hội thông qua. Có ý kiến cho rằng, cổ phần chi phối là phải quyết định được những vấn đề trọng yếu của doanh nghiệp. Do đó, đề nghị doanh nghiệp nhà nước phải có cổ phần chi phối của Nhà nước đạt 65% thì mới là doanh nghiệp nhà nước.

    Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo: Nội hàm “bảo đảm Nhà nước nắm giữ phần vốn góp hoặc cổ phần chi phối” tại khái niệm DNNN bám sát quan điểm chỉ đạo tại Nghị quyết số 12. Quy định này nhằm mục đích kiểm soát chặt chẽ, hiệu quả hơn việc sử dụng vốn Nhà nước trong các DNNN. Việc nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ đã bảo đảm quyền chi phối trực tiếp việc ra các quyết định thông thường (chỉ yêu cầu tỷ lệ trên 50%) và chi phối gián tiếp (phủ quyết) việc ra một số các quyết định khác (yêu cầu tỷ lệ 65%) của doanh nghiệp đó. Đồng thời, tỷ lệ này cũng phù hợp với với các cam kết, thông lệ quốc tế. Do đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin Quốc hội cho giữ quy định này như dự thảo Luật.

    Về quyền của cổ đông phổ thông (Điều 115): Có ý kiến cho rằng, không nên quy định giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần của cổ đông phổ thông. Việc giảm tỷ lệ sở hữu của cổ đông phổ thông sẽ dẫn đến có nhiều cổ đông nhỏ được can thiệp vào hoạt động quản trị, điều hành sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó có thể ảnh hưởng đến việc bảo mật thông tin của doanh nghiệp. Tuy nhiên, để bảo đảm quyền lợi của cổ đông nhỏ lẻ, đề nghị quy định trong dự thảo Luật về trách nhiệm công khai thông tin của cổ đông.

    Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo: Việc quy định cổ đông có tỷ lệ sở hữu cổ phần phổ thông thấp hơn được thực hiện các quyền quy định tại dự thảo Luật là nhằm bảo vệ quyền của cổ đông thiểu số và nhóm cổ đông trong doanh nghiệp. Đây là nội dung quan trọng quy định về khung quản trị doanh nghiệp. Việc quy định theo hướng trên cũng sẽ góp phần quan trọng trong thu hút các nguồn lực đầu tư vào doanh nghiệp. Tuy nhiên, để phù hợp và thống nhất với khái niệm cổ đông lớn quy định trong Luật Chứng khoán, mức tỷ lệ sở hữu của cổ đông hoặc nhóm cổ đông để thực hiện một số quyền của cổ đông phổ thông cần bảo đảm hài hòa quyền, lợi ích hợp lý của các cổ đông thiểu số, nhóm cổ đông trong doanh nghiệp, tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, tránh sự thay đổi quá lớn, có thể gây khó khăn trong quản trị, quản lý bí quyết công nghệ, kinh doanh của doanh nghiệp; phù hợp với thực trạng quản trị và bối cảnh của nước ta, tương thích với mức tỷ lệ phổ biến ở nhiều nước. Do đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin Quốc hội cho giữ quy định này như dự thảo Luật về tỷ lệ sở hữu cổ phần của cổ đông phổ thông là 5%.

    Có ý kiến đề nghị không nên bỏ quy định về điều kiện thời gian cổ đông, nhóm cổ đông sở hữu tỷ lệ cổ phần phổ thông trong thời gian liên tục ít nhất 06 tháng như quy định của Luật hiện hành để bảo đảm việc thực hiện các quyền của cổ đông không làm ảnh hưởng đến việc điều hành hoạt động sản xuất, kinh doanh bình thường của doanh nghiệp.

    Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo: Việc bãi bỏ quy định về thời gian sở hữu “ít nhất 06 tháng liên tục” nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của các cổ đông. Thực tế, nhiều trường hợp các nhà đầu tư đã mua lượng cổ phần rất lớn trong doanh nghiệp nhưng do chưa đáp ứng được quy định về thời gian sở hữu ít nhất 06 tháng liên tục, do đó đã không thực hiện được quyền và lợi ích chính đáng của mình. Vì vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin Quốc hội cho giữ quy định này như dự thảo Luật.

    Về chào bán trái phiếu riêng lẻ của công ty không đại chúng (Điều 128): Có ý kiến đề nghị làm rõ đối tượng được mua và chuyển nhượng trái phiếu chỉ giới hạn cho nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp hay cần mở rộng cho cả nhà đầu tư cá nhân hoặc tổ chức khác.

    Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo: Thị trường trái phiếu doanh nghiệp thời gian vừa qua có sự phát triển nhanh và chuyển dịch dần kênh huy động vốn từ tín dụng ngân hàng sang phát hành trái phiếu doanh nghiệp, tuy nhiên còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, đặc biệt khi các nhà đầu tư cá nhân nhỏ, lẻ đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ có ít thông tin và khả năng phân tích, đánh giá rủi ro hoặc khi các doanh nghiệp lạm dụng, triển khai các hình thức huy động vốn trái phiếu thiếu minh bạch sẽ gây rủi ro cho các nhà đầu tư.

    Để hạn chế rủi ro cho các nhà đầu tư mua trái phiếu và hạn chế doanh nghiệp lạm dụng phương thức này huy động vốn, pháp luật thường hạn chế đối tượng mua trái phiếu riêng lẻ là các nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và giới hạn việc chuyển nhượng trái phiếu riêng lẻ giữa các nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp. Quy định hạn chế này không ảnh hưởng đến quyền của các nhà đầu tư khác không phải là nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và lợi ích của doanh nghiệp vì doanh nghiệp hoàn toàn có thể phát hành trái phiếu ra công chúng để huy động vốn từ nhà đầu tư chứng khoán không chuyên nghiệp. Nhà đầu tư chứng khoán không chuyên nghiệp có thể ủy thác đầu tư trái phiếu riêng lẻ thông qua nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp. Do vậy, dự thảo Luật quy định đối tượng được mua và chuyển nhượng trái phiếu chỉ giới hạn cho nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp là cần thiết, phù hợp với Luật Chứng khoán và thông lệ phổ biến.

    Có ý kiến cho rằng, dự thảo Luật bỏ một số điều kiện về chào bán trái phiếu riêng lẻ như: phương án phát hành trái phiếu được cấp có thẩm quyền phê duyệt và chấp thuận; đáp ứng quy định về tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài; các đợt phát hành trái phiếu chuyển đổi phải cách nhau ít nhất 06 tháng; thời hạn nắm giữ tối thiểu để được chuyển nhượng. Do đó, đề nghị làm rõ quy định tại điểm d khoản 3 Điều 128 về các điều kiện khác theo quy định của pháp luật có liên quan đã bao gồm các điều kiện nêu trên được quy định tại Nghị định số 163/2018/NĐ-CP ngày 04/12/2018 quy định về phát hành trái phiếu doanh nghiệp.

    Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo: Để linh hoạt trong triển khai, thực hiện, hiện nay điều kiện về chào bán trái phiếu riêng lẻ được quy định tại cấp Nghị định. Bên cạnh đó, quy định về tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, thời gian tối thiểu giữa các đợt phát hành và thời gian hạn chế chuyển nhượng chỉ áp dụng đối với trái phiếu doanh nghiệp chuyển đổi riêng lẻ và trái phiếu doanh nghiệp kèm theo chứng quyền riêng lẻ, không phải điều kiện áp dụng chung cho các loại trái phiếu. Do đó, quy định tại điểm d khoản 3 Điều 128 của dự thảo Luật có dẫn chiếu đến “các điều kiện khác theo quy định của pháp luật có liên quan” được hiểu là đã bao gồm các điều kiện này theo quy định tại Luật Chứng khoán. Căn cứ quy định tại dự thảo Luật Doanh nghiệp và Luật Chứng khoán, Chính phủ đã và đang dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 163/2018/NĐ-CP, trong đó có quy định cụ thể về điều kiện phát hành trái phiếu doanh nghiệp, để bảo đảm kiểm soát chặt chẽ việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp.

    Về mối quan hệ giữa Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) và các luật có liên quan: Có ý kiến cho rằng, quy định về chuyển nhượng vốn góp giữa Luật Doanh nghiệp và Luật Hôn nhân và gia đình còn mâu thuẫn về quyền sở hữu đối với tài sản sở hữu chung. Do đó, đề nghị nghiên cứu bổ sung quy định cụ thể về quyền sở hữu và quyền chuyển nhượng vốn góp tại dự thảo Luật.

    Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo: Dự thảo Luật chỉ quy định việc chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn đối với cá nhân cho công ty. Đối với tài sản có đăng ký quyền sở hữu hoặc quyền sở hữu đất thì người góp vốn phải làm thủ tục chuyển nhượng sở hữu tài sản đó hoặc quyền sử dụng đất cho công ty theo quy định của pháp luật (Điều 35). Do đó, khi thực hiện các thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn thì phải tuân thủ quy định bao gồm cả quy định về chuyển quyền sở hữu đối với tài sản có sở hữu chung, như quyền sử dụng đất, tài sản có đăng ký… Vì vậy, nội dung về chuyển quyền sở hữu đối với tài sản chung thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật về dân sự và pháp luật khác có liên quan, không thuộc phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật.

    Có ý kiến cho rằng, Bộ luật Dân sự quy định rõ hai cơ chế đại diện là đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền, tuy nhiên điểm e khoản 23 Điều 4 của dự thảo Luật lại sử dụng thuật ngữ “người đại diện”. Do đó, đề nghị làm rõ mối quan hệ giữa ba chế định về người đại diện theo pháp luật, người đại diện theo ủy quyền và người đại diện để tránh xung đột pháp luật. Ủy ban Thường vụ xin tiếp thu, chỉnh sửa quy định tại điểm e khoản 23 Điều 4 của dự thảo Luật thành “người đại diện theo ủy quyền” như quy định của Luật hiện hành để bảo đảm tính thống nhất với Bộ luật Dân sự về chế định người đại diện theo ủy quyền.

    Về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp (Điều 7 và Điều 8): Một số ý kiến cho rằng, khoản 1 Điều 7 quy định: “tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà luật không cấm” và điểm a khoản 1 Điều 27 Luật Doanh nghiệp năm 2014 có quy định: “ngành, nghề đăng ký kinh doanh không bị cấm đầu tư, kinh doanh”. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, doanh nghiệp vẫn phải đăng ký chi tiết những ngành, nghề đăng ký kinh doanh với Cơ quan đăng ký kinh doanh. Do đó, đề nghị bổ sung nội dung này theo hướng doanh nghiệp không cần phải đăng ký ngành, nghề kinh doanh mà pháp luật không quy định phải có điều kiện.

    Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo: Việc quy định doanh nghiệp gửi thông tin về ngành, nghề kinh doanh cho Cơ quan đăng ký kinh doanh không hạn chế quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp được quyền tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm. Việc gửi thông tin này chỉ là thủ tục thông báo cho Cơ quan đăng ký kinh doanh để ghi nhận thông tin về doanh nghiệp vào Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp mà không phải là thủ tục đăng ký ngành, nghề kinh doanh của doanh nghiệp. Hơn nữa, quy định này cũng là cơ sở để cơ quan thuế phân cấp quản lý về thuế và xác định mức ưu đãi thuế cho doanh nghiệp.

    Có ý kiến đề nghị bổ sung một khoản tại Điều 8 quy định về nghĩa vụ của doanh nghiệp, cụ thể như sau: "Trường hợp doanh nghiệp có dự án sử dụng đất tại đơn vị hành chính cấp tỉnh khác nơi có trụ sở chính thì phải thành lập pháp nhân và thực hiện nghĩa vụ kê khai nộp thuế tại khu vực đó" nhằm bảo đảm nguồn lực cho địa phương nơi có dự án sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và bảo đảm đồng bộ với Luật Quản lý thuế.

    Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo: Nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp và Luật Doanh nghiệp là không hạn chế các doanh nghiệp trong lựa chọn hình thức tổ chức kinh doanh và không hạn chế phạm vi kinh doanh của doanh nghiệp trên lãnh thổ Việt Nam và quốc tế. Việc lựa chọn hình thức kinh doanh phù hợp là quyền của doanh nghiệp tùy theo nhu cầu và điều kiện kinh doanh cụ thể của doanh nghiệp. Trường hợp, doanh nghiệp có dự án sử dụng đất tại đơn vị hành chính cấp tỉnh khác với nơi có trụ sở chính thì doanh nghiệp thực hiện trình tự, thủ tục theo pháp luật về đầu tư, đất đai... mà không bắt buộc thành lập một pháp nhân mới. Do đó, không nên có quy định hạn chế hoặc yêu cầu doanh nghiệp phải thành lập pháp nhân mới khi kinh doanh ngoài phạm vi địa phương nơi mà doanh nghiệp đặt trụ sở chính.

    Về người đại diện theo pháp luật (Điều 12): Có ý kiến cho rằng, để môi trường kinh doanh công khai, minh bạch trong công tác quản lý và giao dịch với khách hàng thuận lợi, đáp ứng đầy đủ thông tin cho khách hàng, đề nghị bổ sung quy định về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp phải báo cáo thay đổi thông tin của người quản lý doanh nghiệp.

    Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo: các chức danh (chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên công ty TNHH, thành viên công ty hợp danh, chủ tịch công ty, thành viên HĐTV và người đại diện theo pháp luật…) đều được đăng ký thay đổi và ghi nhận tại Cơ quan đăng ký kinh doanh. Đối với thành viên Hội đồng quản trị và Giám đốc (hoặc Tổng giám đốc) nếu không phải là cổ đông, thành viên công ty thì là người được thuê để điều hành công ty và phải chịu trách nhiệm cá nhân trước công ty. Đối với bên thứ 3 thì người đại diện theo pháp luật sẽ nhân danh công ty thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Việc đăng ký thông tin đối với thành viên Hội đồng quản trị và Giám đốc (hoặc Tổng giám đốc) không có ý nghĩa về quản lý nhà nước mà chỉ có ý nghĩa đối với chính doanh nghiệp đó. Do đó, đây là việc nội bộ của doanh nghiệp. Thực tế cho thấy, việc thay đổi người quản lý doanh nghiệp thường xuyên xảy ra, việc yêu cầu doanh nghiệp phải báo cáo thay đổi thông tin với các đối tượng này chỉ làm phát sinh thêm thủ tục hành chính, thời gian của doanh nghiệp. Vì vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin Quốc hội cho giữ như dự thảo Luật.

    Có ý kiến đề nghị bổ sung nội dung tại khoản 6 Điều 12 đối với Công ty TNHH một thành viên nếu chủ sở hữu là cá nhân, đồng thời là người đại diện doanh nghiệp theo pháp luật của công ty chết, mất tích, bị tạm giam thì ai sẽ là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo: Điều 78 đã quy định về việc thực hiện quyền của chủ sở hữu công ty trong một số trường hợp đặc biệt, theo đó quy định cụ thể việc thực hiện quyền trong các trường hợp chủ sở hữu công ty bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, chết, mất tích. Như vậy, dự thảo Luật đã có quy định cụ thể tại Điều 78 như ý kiến của ĐBQH.

    Về quyền thành lập, góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp và quản lý doanh nghiệp (Điều 17): Có ý kiến cho rằng, dự thảo Luật đã đưa ra 7 nhóm đối tượng không có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp, về cơ bản là đầy đủ. Tuy nhiên, đề nghị bổ sung thêm đối tượng về các pháp nhân thương mại vi phạm theo quyết định của Tòa án.

    Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin tiếp thu, bổ sung đối tượng: "Tổ chức là pháp nhân thương mại bị cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định theo quy định của Bộ luật Hình sự" tại điểm g khoản 2 Điều 17 để phù hợp với quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Điều 33 và Điều 80).

    Có ý kiến đề nghị chỉnh sửa quy định "Người chưa thành niên" thành "Người chưa đủ 15 tuổi"  (điểm đ khoản 2) vì theo quy định tại khoản 1 Điều 3 của Bộ luật Lao động năm 2019 quy định: "Độ tuổi lao động tối thiểu của người lao động là đủ 15 tuổi". Như vậy, người đủ 15 tuổi là người đủ tuổi lao động tối thiểu theo luật định nên có thể được thành lập doanh nghiệp và quản lý doanh nghiệp.

    Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo: Việc xác định độ tuổi quản lý, điều hành doanh nghiệp cần căn cứ vào năng lực hành vi dân sự, Bộ luật Dân sự quy định chỉ người từ đủ 18 tuổi trở lên mới đủ năng lực hành vi dân sự. Hơn nữa, các giao dịch bất động sản và động sản có đăng ký của người từ 15 -18 tuổi thì phải có người giám hộ (Điều 21 của Bộ luật Dân sự). Như vậy, nếu người từ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi làm người quản lý, điều hành doanh nghiệp thì phải có người giám hộ tham dự các cuộc họp và tham gia vào các quyết định của Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị. Điều này sẽ tạo ra sự phức tạp trong hoạt động của doanh nghiệp. Mặt khác, theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình với các giao dịch do người dưới 18 tuổi thực hiện, bố mẹ phải chịu trách nhiệm liên đới, điều này là không bảo đảm sự độc lập về tài sản của pháp nhân.

    Ngoài ra, việc mở rộng nhóm đối tượng từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi được tham gia thành lập và quản lý doanh nghiệp cần phải được xem xét, đánh giá thận trọng, tác động sâu rộng đối với hàng trăm ngàn doanh nghiệp mà hiện nay chưa có đánh giá tác động chính sách đối với nhóm đối tượng này. Do đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin Quốc hội cho giữ như dự thảo Luật.

    Về trình tự, thủ tục đăng ký doanh nghiệp (Điều 26): Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về hồ sơ đăng ký doanh nghiệp phải có đầy đủ giấy tờ chứng minh trụ sở doanh nghiệp thuộc sở hữu của doanh nghiệp hoặc có hợp đồng thuê mướn địa điểm làm trụ sở hợp pháp. Đồng thời, bổ sung quy định về trách nhiệm của các ngành chức năng trong việc kiểm chứng thông tin đăng ký doanh nghiệp và chế tài xử lý đối với các đối tượng liên quan khi để xảy ra việc sai phạm như việc kê khai giả...

    Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo: Việc bổ sung quy định như trên sẽ làm phát sinh thêm thủ tục hành chính, tạo gánh nặng hành chính trong gia nhập thị trường cho đại đa số người thành lập doanh nghiệp. Hơn nữa, nếu yêu cầu doanh nghiệp phải có giấy tờ chứng minh trụ sở chính của doanh nghiệp sẽ đi ngược với xu hướng về cải cách môi trường đầu tư, kinh doanh, thủ tục hành chính và định hướng thay đổi phương thức quản lý từ tiền kiểm sang hậu kiểm. Do đó, việc kiểm soát các hiện tượng nêu trên chỉ có thể được thực hiện một cách có hiệu quả thông qua hậu kiểm.

    Về trách nhiệm của các ngành chức năng trong việc kiểm chứng thông tin đăng ký doanh nghiệp và chế tài xử lý đối với các đối tượng liên quan khi để xảy ra việc sai phạm, Điều 216 của dự thảo Luật đã quy định thẩm quyền của Cơ quan đăng ký kinh doanh về quyền kiểm tra nội dung đăng ký kinh doanh, xử lý vi phạm các quy định về đăng ký doanh nghiệp và thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.

    Có ý kiến cho rằng, do chưa có quy định cụ thể chi tiết về trình tự, thủ tục tiếp nhận và thu phí đăng ký doanh nghiệp đối với trường hợp nộp hồ sơ qua dịch vụ bưu chính, nên các phòng đăng ký kinh doanh ở nhiều địa phương còn rất lúng túng và cách áp dụng khác nhau. Do vậy, đề nghị bổ sung quy định cụ thể về trình tự, thủ tục tiếp nhận và thu phí đăng ký doanh nghiệp đối với trường hợp nộp hồ sơ qua dịch vụ bưu chính tại Điều 26.

    Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo: Dự thảo Luật chỉ quy định nguyên tắc chung và giao Chính phủ quy định về hồ sơ, trình tự, thủ tục, liên thông trong đăng ký doanh nghiệp (khoản 6). Chính phủ sẽ ban hành văn bản dưới luật quy định cụ thể về trình tự, thủ tục tiếp nhận đối với trường hợp nộp hồ sơ qua dịch vụ bưu chính tại Điều 26 của dự thảo Luật. Đồng thời, việc thu phí đăng ký doanh nghiệp được thực hiện theo quy định của pháp luật về phí và lệ phí (điểm đ khoản 1 Điều 27).

    Về trình tự, thủ tục giải thể doanh nghiệp (Điều 208): Có ý đề nghị sửa điểm b khoản 5 Điều 208 như sau: “Nợ xấu có tài sản bảo đảm và nghĩa vụ trả nợ thuế” để phù hợp với quy định tại Điều 12 của Nghị quyết số 42/2017/QH14 Về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng.

    Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo: Nghị quyết số 42/2017/QH14 Về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng chỉ quy định mang tính thí điểm một số chính sách về xử lý nợ xấu và có thời hạn thực hiện trong thời hạn 05 năm kể từ ngày có hiệu lực thi hành (đến tháng 08/2022). Sau quá trình thực hiện thí điểm, Chính phủ sẽ tổng kết, đánh giá việc thực hiện Nghị quyết này, trên cơ sở đó mới có đủ cơ sở để cụ thể hóa vào trong Luật. Do đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin Quốc hội cho giữ như dự thảo Luật.

    Một số ý kiến đề nghị bổ sung nội dung doanh nghiệp có quyền thỏa thuận với chủ nợ và các chủ thể có liên quan về nghĩa vụ trả nợ, về cách thức trả nợ, thời hạn trả nợ để phù hợp và đáp ứng yêu cầu thực tiễn, đồng thời tạo điều kiện linh động cho doanh nghiệp trong quá trình tổ chức triển khai trình tự, thủ tục giải thể doanh nghiệp để tạo sự chủ động trong giải quyết các món nợ của doanh nghiệp bằng phương pháp thỏa thuận.

    Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo: Việc thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp khi doanh nghiệp giải thể được thực hiện theo trình tự quy định tại khoản 5 Điều 208; theo quy định tại khoản 2 Điều 209 thì “Trường hợp doanh nghiệp còn nghĩa vụ tài chính chưa thanh toán thì phải đồng thời gửi kèm theo nghị quyết, quyết định giải thể của doanh nghiệp phương án giải quyết nợ đến các chủ nợ, người có quyền lợi và nghĩa vụ có liên quan”. Theo các quy định này, doanh nghiệp vẫn có quyền chủ động trong phương án giải quyết các khoản nợ của mình; việc thanh toán nợ bao gồm cả việc thỏa thuận với các chủ nợ và các bên liên quan. Như vậy, nội hàm của quy định tại dự thảo Luật đã thể hiện như ý kiến của ĐBQH.

    Về trách nhiệm của Cơ quan đăng ký kinh doanh (Điều 216): Có ý kiến đề nghị xem xét bổ sung quy định Cơ quan đăng ký kinh doanh có trách nhiệm kiểm tra, đôn đốc việc góp vốn điều lệ và điều chỉnh đăng ký vốn điều lệ để khắc phục tình trạng kê khai khống vốn điều lệ.

    Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo: Điều 216 đã quy định quyền của Cơ quan đăng ký kinh doanh trong việc yêu cầu doanh nghiệp báo cáo về việc tuân thủ các quy định của Luật này khi xét thấy cần thiết và xử lý vi phạm các quy định về đăng ký doanh nghiệp theo quy định của pháp luật (trong đó có nội dung về vốn điều lệ). Hơn nữa, Điều 68 và Điều 87 cũng quy định Cơ quan đăng ký kinh doanh phải cập nhật thông tin về việc tăng hoặc giảm vốn điều lệ trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông báo của doanh nghiệp về việc thay đổi vốn điều lệ (trong đó có trường hợp giảm vốn do không được các thành viên thanh toán đầy đủ và đúng hạn). Như vậy, dự thảo Luật đã có quy định cụ thể tại các điều 68, 87 và 216 như ý kiến của ĐBQH.

    Có ý kiến đề nghị làm rõ nội dung không chịu trách nhiệm về vi phạm của doanh nghiệp xảy ra sau đăng ký doanh nghiệp trong trường hợp nào đối với quy định: "Cơ quan đăng ký kinh doanh chịu trách nhiệm về tính hợp lệ của hồ sơ đăng ký doanh nghiệp, không chịu trách nhiệm về những vi phạm của doanh nghiệp xảy ra trước và sau đăng ký doanh nghiệp" (điểm đ khoản 1 Điều 216).

    Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo: Một trong những nguyên tắc trong đăng ký kinh doanh là doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực đối với các thông tin mà mình đăng ký. Cơ quan đăng ký kinh doanh sẽ chịu trách nhiệm về tính hợp lệ đối với hồ sơ đăng ký doanh nghiệp. Trường hợp doanh nghiệp vi phạm sau khi được thành lập và trong quá trình hoạt động sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.

    Về một số nội dung cụ thể khác: Có ý kiến đề nghị bổ sung khái niệm tại Điều 4 về "nhóm công ty". Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo: Nhóm công ty không phải là chủ thể pháp lý mà chỉ là một tập hợp các công ty có quan hệ với nhau thông qua sở hữu cổ phần, phần vốn góp (ví dụ như tập đoàn kinh tế, tổng công ty). Hơn nữa, nhóm công ty không phải là một loại hình doanh nghiệp, không có tư cách pháp nhân, không phải đăng ký thành lập theo quy định của Luật, do vậy không cần thiết phải bổ sung khái niệm về nhóm công ty vào dự thảo Luật; đồng thời quy định về nhóm công ty đã được làm rõ trong dự thảo Luật (Chương VIII). Có ý kiến đề nghị cân nhắc quy định tại khoản 9 Điều 53 về việc thành viên công ty là cá nhân bị Tòa án cấm hành nghề, làm công việc nhất định thì thành viên đó phải chuyển nhượng toàn bộ phần vốn góp của mình.

    Thường trực Ủy ban Kinh tế xin tiếp thu, bỏ quy định việc thành viên công ty là cá nhân bị Tòa án cấm hành nghề, làm công việc nhất định thì thành viên đó “phải chuyển nhượng toàn bộ phần vốn góp của mình” để bảo đảm quyền sở hữu đối với tài sản của cá nhân theo đúng tinh thần của Bộ luật Dân sự. Có ý kiến cho rằng, quy định tại Điều 103 của dự thảo Luật thì Ban kiểm soát có thể chỉ bao gồm 01 người, đây là quy định mới so với Luật hiện hành. Tuy nhiên, dự thảo Luật chưa quy định về cơ chế làm việc của Ban kiểm soát trong trường hợp chỉ có 01 người. Đề nghị nghiên cứu để bổ sung quy định này.

    Thường trực Ủy ban Kinh tế xin tiếp thu, bổ sung quy định về trường hợp Ban kiểm soát chỉ có 01 Kiểm soát viên thì Kiểm soát viên đó đồng thời là Trưởng Ban kiểm soát và phải đáp ứng tiêu chuẩn của Trưởng Ban kiểm soát tại khoản 1 Điều 103 của dự thảo Luật. Có ý kiến cho rằng, theo quy định tại Điều 47 và Điều 113 thì số cổ phần chưa thanh toán được coi là cổ phần chưa bán và Hội đồng quản trị có quyền bán. Đề nghị làm rõ quy định này và cân nhắc sửa đổi như quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005.

    Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo: Cổ phần, phần góp vốn chưa góp hoặc chưa thanh toán đủ là của doanh nghiệp chứ không phải là của thành viên hay cổ đông của công ty. Theo quy định của dự thảo Luật, Hội đồng thành viên và Hội đồng quản trị có quyền bán các cổ phần chưa thanh toán này mà không phải thực hiện thêm thủ tục chào bán.

    Có ý kiến cho rằng, khoản 2 Điều 156 quy định công ty đại chúng thì Chủ tịch Hội đồng quản trị không được kiêm Giám đốc, Tổng giám đốc, tuy nhiên Luật Doanh nghiệp hiện hành quy định Chủ tịch Hội đồng quản trị có thể kiêm giám đốc và tổng giám đốc. Thực tế trong thời gian qua, thực hiện quy định này đã có hiệu quả cao trong công tác điều hành, quản lý và tổ chức hoạt động của doanh nghiệp. Vì vậy, đề nghị giữ như quy định của Luật hiện hành, giao cho cổ đông quyền tự quyết định mô hình điều hành, Chủ tịch Hội đồng quản trị có thể kiêm Giám đốc và Tổng giám đốc.

    Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo: Quy định như dự thảo Luật nhằm hạn chế xung đột lợi ích, hạn chế tập quyền, hạn chế việc cổ đông lớn thâu tóm quyền lực trong công ty mà có thể gây ảnh hưởng đến lợi ích của nhiều cổ đông khác. Đồng thời, quy định này phù hợp theo thông lệ tốt về quản trị công ty của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD).

    Có ý kiến đề nghị nghiên cứu tính tương thích của quy định tại điểm c khoản 1 Điều 177 và điểm a khoản 2 Điều 187; làm rõ và thống nhất về trách nhiệm tài sản của thành viên góp vốn công ty hợp danh. Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin tiếp thu, chỉnh sửa nội dung quy định tại Điều 177 và Điều 187 theo hướng quy định về trách nhiệm tài sản của thành viên góp vốn công ty hợp danh phải chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết góp.

    Có ý kiến đề nghị bổ sung vào Điều 207 quy định loại trừ trường hợp giải thể do bị thu hồi Giấy chứng nhận doanh nghiệp để phù hợp với quy định của Luật Quản lý thuế. Thường trực Ủy ban Kinh tế xin tiếp thu, theo quy định tại khoản 2 Điều 125 của Luật Quản lý thuế, việc thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp trong trường hợp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế không dẫn đến việc giải thể doanh nghiệp. Do đó, để bảo đảm tính đồng bộ với quy định của Luật Quản lý thuế, điểm d khoản 1 Điều 207 của dự thảo Luật tiếp thu, chỉnh sửa như sau: “Bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, trừ trường hợp Luật Quản lý thuế có quy định khác”.

    Ngoài những nội dung nêu trên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo Cơ quan chủ trì thẩm tra, Cơ quan soạn thảo và các cơ quan hữu quan tiếp thu, chỉnh lý về kỹ thuật văn bản; trình Quốc hội xem xét, quyết định./.

    Bích Lan - Hoàng Quỳnh

    Theo Cổng thông tin điện tử Quốc hội

     
    Báo quản trị |  
  • #549379   17/06/2020

    lamkylaw
    lamkylaw
    Top 100
    Lớp 10

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:31/10/2018
    Tổng số bài viết (660)
    Số điểm: 14232
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 612 lần


    Quốc hội chính thức khai tử dịch vụ đòi nợ thuê

    Dịch vụ đòi nợ thuê chính thức bị nghiêm cấm sau khi Quốc hội bấm nút thông qua dự thảo luật Đầu tư (sửa đổi) vào chiều nay (17/6).

    92,34% ĐBQH tương đương 446/458 ĐBQH tham gia biểu quyết tán thành, Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển nêu rõ Quốc hội chính thức thông qua dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi).

    Trong dự thảo luật, nhiều ý kiến đề nghị không nên cấm “kinh doanh dịch vụ đòi nợ”, một số ý kiến tán thành cấm hình thức này. Do còn nhiều ý kiến khác nhau, UB Thường vụ QH trình 2 phương án để QH xem xét, quyết định.

    Trình bày báo cáo giải trình, tiếp thu, Chủ nhiệm UB Kinh tế của QH Vũ Hồng Thanh cho biết, UB Thường vụ Quốc hội đã gửi phiếu xin ý kiến ĐBQH và đa số ý kiến ĐBQH tán thành quy định cấm “kinh doanh dịch vụ đòi nợ”.

    Trước đó, tại phiên thảo luận trực tuyến về nội dung này, các đại biểu có hai luồng ý kiến: quy định cấm hoặc không quy định cấm dịch vụ đòi nợ.

    ĐB Nguyễn Bá Sơn (Đà Nẵng) lập luận nếu như người dân đi đòi nợ theo một con đường hợp pháp thì lại không lấy được nợ. Vì vậy, họ tìm đến dịch vụ đòi nợ thuê.

    Ủy viên Thường trực UB Quốc phòng và An ninh Thiếu tướng Nguyễn Thị Xuân bày tỏ quan ngại về dịch vụ đòi nợ thuê vì thực tế thời gian vừa qua, đa số các công ty đòi nợ thuê đều câu kết với băng nhóm xã hội đen.

    Theo đánh giá của Bộ KH&ĐT, đóng góp của loại ngành nghề này vào ngân sách và sự phát triển kinh tế - xã hội không đáng bao nhiêu.

    bỏ dịch vụ đòi nợ thuê

    ĐBQH biểu quyết thông qua dự thảo luật Đầu tư (sửa đổi)

    Thiếu tướng Nguyễn Mai Bộ (An Giang) nói không thể không cấm đòi nợ thuê. Bởi, nhân viên toàn là xăm trổ, công cụ lao động là dao kiếm, phương thức hoạt động là dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực. Nếu tiếp tục để dịch vụ này thì gây hoang mang xã hội, dẫn tới mất niềm tin của nhân dân với lực lượng quản lý xã hội.

    ĐB Trần Hoàng Ngân (TP.HCM) góp ý nên tham khảo một số nước như Thái Lan, Mỹ. Ví dụ, quy định điều kiện thành lập cũng như quy trình thu hồi nợ hết sức chuẩn mực, thậm chí quy định thời gian được gọi điện thoại cho khách nợ.

    Bộ trưởng KH&ĐT Nguyễn Chí Dũng khi giải trình nội dung này cho biết đây là vấn đề Chính phủ đã nghiên cứu, thảo luận hết sức công phu, xem xét thận trọng. Cuối cùng đi đến quyết định chọn phương án cấm loại kinh doanh dịch vụ này.

    Theo VietNamnet

     

    Cập nhật bởi lamkylaw ngày 17/06/2020 03:46:34 CH
     
    Báo quản trị |  
  • #549446   18/06/2020

    MinhPig
    MinhPig
    Top 75
    Female
    Lớp 12

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:06/04/2018
    Tổng số bài viết (804)
    Số điểm: 20259
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 767 lần


    Quốc hội thông qua luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật

     

    Tiếp tục Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XIV, sáng ngày 18/6, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu, Quốc hội biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

    Kết quả cho thấy, 92,96% đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành với việc thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu nêu rõ: Với đa số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành, Quốc hội chính thức thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

    Trước đó, Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật do Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Hoàng Thanh Tùng trình bày nêu rõ: Ngày 22/5/2020, Quốc hội đã thảo luận trực tuyến về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Luật BHVBQPPL). Về cơ bản, các vị đại biểu Quốc hội (ĐBQH) tán thành với Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý và nhiều nội dung của dự thảo Luật; đồng thời đóng góp thêm ý kiến về một số điều, khoản cụ thể. Trên cơ sở ý kiến của các vị ĐBQH, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo các cơ quan hữu quan nghiên cứu, tiếp thu để chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo Luật.

    THÔNG QUA LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT

    Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Hoàng Thanh Tùng trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

     

    Về phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL): Có ý kiến đề nghị quy định rõ hơn về thời gian cơ quan chủ trì soạn thảo gửi văn bản tới Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (MTTQVN) và phạm vi, chủ thể, thời hạn thực hiện phản biện xã hội của MTTQVN để bảo đảm tính khả thi.

    Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo như sau: hiện nay, việc phản biện xã hội đối với dự thảo VBQPPL đang được thực hiện theo quy định của Luật MTTQVN. Dự thảo Luật đã tiếp thu, bổ sung quy định về hoạt động phản biện xã hội của MTTQVN và các tổ chức thành viên trong quy trình xây dựng, ban hành VBQPPL tại Điều 6. Các vấn đề về thời gian gửi văn bản, phạm vi, chủ thể, thời hạn phản biện xã hội thuộc trình tự, thủ tục thực hiện phản biện xã hội, hiện đang được quy định tại Nghị quyết liên tịch số 403/2017/NQLT-UBTVQH14-CP-ĐCTUBTWMTTQVN. Do đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin tiếp thu ý kiến của các ĐBQH để chỉ đạo các cơ quan liên quan rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung, quy định rõ trong Nghị quyết liên tịch số 403.

    Về việc thẩm tra dự án luật, pháp lệnh: Có ý kiến đề nghị Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội chỉ nên có ý kiến mà không nên quy định trách nhiệm thẩm tra đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh và tham gia thẩm tra dự án, dự thảo thuộc lĩnh vực phụ trách.

    Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo: Theo quy định của Hiến pháp và Luật Tổ chức Quốc hội, Hội đồng Dân tộc (HĐDT), Ủy ban của Quốc hội có nhiệm vụ thẩm tra các dự án luật thuộc lĩnh vực phụ trách nhằm bảo đảm tất cả các nội dung liên quan của dự án luật đều được xem xét để báo cáo Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Tương tự như vậy, trong việc thẩm tra đề nghị xây dựng luật, ngoài trách nhiệm chung của Ủy ban Pháp luật thì rất cần ý kiến thẩm tra chuyên môn sâu của HĐDT, Ủy ban khác của Quốc hội với vai trò là cơ quan phụ trách lĩnh vực. Đây cũng là sự đổi mới hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội trong công tác lập Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV nhằm nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật và đã đạt được những kết quả tích cực. Việc quy định như vậy cũng là nhằm đề cao, làm rõ hơn trách nhiệm của các cơ quan tham gia trong quy trình xây dựng, ban hành luật như yêu cầu của Ban Bí thư tại Thông báo số 26-TB/TW ngày 19/4/2017.

    Có ý kiến đề nghị bổ sung vào khoản 1 Điều 64 quy định hồ sơ dự án, dự thảo gửi thẩm tra phải bao gồm “Báo cáo việc bảo đảm chính sách dân tộc, nếu trong dự án, dự thảo có quy định liên quan đến vấn đề dân tộc”. Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy, đối với các dự án, dự thảo có quy định liên quan đến vấn đề dân tộc thì việc bảo đảm chính sách dân tộc là nội dung quan trọng, phải được xem xét, đánh giá tác động cùng với các chính sách cơ bản khác ngay từ khi lập đề nghị xây dựng văn bản và được lồng ghép thể hiện trong Báo cáo đánh giá tác động của chính sách, nội dung cơ bản của dự án, dự thảo. Do đó, tiếp thu ý kiến ĐBQH, tại khoản 2 Điều 55 dự thảo Luật đã bổ sung quy định Tờ trình phải thể hiện rõ các nội dung cơ bản của dự án, dự thảo, trong đó bao gồm việc bảo đảm chính sách dân tộc mà không quy định phải có báo cáo riêng.

    Về văn bản quy định chi tiết luật, pháp lệnh: Một số ý kiến đề nghị không quy định hồ sơ dự án luật, pháp lệnh phải có dự thảo văn bản quy định chi tiết. Các ý kiến khác đề nghị giữ quy định của Luật hiện hành để bảo đảm việc ban hành văn bản quy định chi tiết được kịp thời, tránh nợ đọng văn bản, bảo đảm luật có hiệu lực là thi hành ngay.

    Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo: Luật BHVBQPPL năm 1996 được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2002 đã quy định hồ sơ dự án luật trình Quốc hội phải có dự thảo văn bản quy định chi tiết. Luật BHVBQPPL năm 2008 đã bỏ quy định này. Tuy nhiên, năm 2013, qua giám sát tối cao việc ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành luật, Quốc hội thấy rằng tình trạng nợ đọng, chậm ban hành văn bản quy định chi tiết có xu hướng gia tăng, dẫn đến luật chậm được triển khai thực hiện. Do đó, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 67/2013/QH13 yêu cầu trong hồ sơ dự án luật phải trình kèm theo dự thảo văn bản quy định chi tiết. Quy định này tiếp tục được thể hiện trong Luật BHVBQPPL năm 2015 (khoản 2 Điều 11) và kết quả thực hiện thời gian qua cho thấy hiệu quả rõ rệt. Việc yêu cầu phải có dự thảo văn bản quy định chi tiết kèm theo hồ sơ dự án luật giúp cơ quan soạn thảo, cơ quan trình dự án cũng như các cơ quan của Quốc hội, ĐBQH có cơ sở để xem xét, đánh giá toàn diện các vấn đề được dự kiến điều chỉnh và áp dụng khi luật được ban hành để quyết định việc thông qua, nhất là bảo đảm để các chính sách quy định trong luật được cụ thể hóa một cách nhất quán. Mặt khác, qua xem xét, nghiên cứu dự thảo văn bản quy định chi tiết, Quốc hội đã đưa một số nội dung của văn bản quy định chi tiết thành quy định của luật, bảo đảm luật hóa tối đa để thi hành được ngay khi luật có hiệu lực. Vì vậy, đề nghị Quốc hội cho giữ quy định về vấn đề này như Luật hiện hành. Đồng thời, tiếp thu ý kiến của các vị ĐBQH, đề nghị cơ quan trình, cơ quan soạn thảo thời gian tới cần quan tâm hơn nữa việc chuẩn bị dự thảo văn bản quy định chi tiết nhằm bảo đảm chất lượng văn bản, tránh hình thức, lãng phí.

    Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định trường hợp luật giao chính quyền địa phương ban hành văn bản quy định chi tiết thì thời điểm luật có hiệu lực sau khi được ban hành cần dài hơn để chính quyền địa phương có đủ thời gian xây dựng, ban hành văn bản. Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy, các dự thảo luật khi trình Quốc hội đều dự kiến thời gian có hiệu lực, trong đó cơ quan trình đã cân nhắc, tính toán đến việc xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết. Về vấn đề đại biểu nêu, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin được tiếp thu để chỉ đạo các cơ quan trong quá trình soạn thảo, chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo luật cần lưu ý, dự liệu thời điểm có hiệu lực của luật phù hợp hơn, bảo đảm đủ thời gian cho các cơ quan, địa phương thực hiện.

    LUẬT BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT

    Các đại biểu Quốc hội nhấn nút biểu quyết thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

    Về quy định thủ tục hành chính trong VBQPPL: Có ý kiến đề nghị quy định Hội đồng Nhân dân (HĐND) cấp tỉnh có thể giao Ủy ban Nhân dân (UBND) cấp tỉnh quy định thủ tục hành chính để tổ chức thực hiện nghị quyết của HĐND trong trường hợp cần thiết.

    Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy, các quy định thủ tục hành chính có tác động trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của người dân, do đó về nguyên tắc phải được quy định cụ thể trong luật, trường hợp cần thiết mới quy định trong nghị định của Chính phủ; riêng đối với nghị quyết của HĐND, quyết định của UBND thì chỉ được quy định thủ tục hành chính trong trường hợp được luật giao. Trong sửa đổi Luật lần này, để khắc phục một số vướng mắc đã được nhận diện qua tổng kết thực tiễn, dự thảo Luật đã cho phép HĐND cấp tỉnh được quy định thủ tục hành chính khi ban hành nghị quyết để quy định biện pháp có tính chất đặc thù phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Nếu cho phép HĐND cấp tỉnh tiếp tục “ủy quyền” cho UBND cấp tỉnh quy định thủ tục hành chính để thực hiện nghị quyết của HĐND sẽ mở rộng thêm chủ thể, thêm hình thức văn bản quy định về thủ tục hành chính. Vì vậy, đề nghị Quốc hội cho giữ quy định về vấn đề này như dự thảo Luật.

    Về thẩm quyền ban hành VBQPPL của HĐND và UBND cấp huyện, cấp xã (Điều 30): Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định HĐND và UBND cấp huyện, cấp xã được ban hành VBQPPL để quyết định những vấn đề được phân quyền, để thực hiện phân cấp hoặc quy định những biện pháp có tính chất đặc thù phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, đặc điểm riêng của địa phương. Như đã giải trình với Quốc hội tại Báo cáo số 533/BC-UBTVQH14 ngày 20/5/2020, việc chính quyền địa phương cấp huyện, cấp xã ban hành VBQPPL để quyết định những vấn đề đặc thù ở địa phương không phải là phổ biến, chỉ phát sinh ở một số ít địa phương và thực tế đã có giải pháp để xử lý.

    Đối với trường hợp luật phân quyền cho chính quyền địa phương cấp huyện, cấp xã, nếu cần thiết ban hành VBQPPL để thực hiện thì luật phải giao cụ thể, do đó đây không phải là vấn đề mới. Riêng trường hợp HĐND, UBND cấp huyện ban hành VBQPPL để phân cấp cho chính quyền địa phương, cơ quan nhà nước cấp dưới theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương thì chưa được quy định trong Luật BHVBQPPL. Vì vậy, tiếp thu ý kiến ĐBQH, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho bổ sung quy định chính quyền địa phương cấp huyện được ban hành VBQPPL để phân cấp cho cấp dưới như thể hiện tại Điều 30 của dự thảo Luật.

    Về trình tự xem xét, thông qua dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội, dự thảo pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Có ý kiến đề nghị trong trình tự xem xét, thông qua dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết tại một kỳ họp của Quốc hội, một phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội cần bổ sung quy định về đánh giá tác động đối với chính sách mới do ĐBQH đề nghị bổ sung vào dự án, dự thảo (tương tự như quy trình tại hai kỳ họp).

    Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy, thời gian một kỳ họp Quốc hội, một phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thường rất ngắn. Các dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết được trình xem xét, thông qua theo quy trình tại một kỳ họp Quốc hội, một phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về cơ bản đã có sự thống nhất cao về nội dung giữa cơ quan thẩm tra, cơ quan trình và sự đồng thuận của các vị ĐBQH. Trường hợp có chính sách mới quan trọng, được ĐBQH đề xuất, cần đánh giá tác động thì phải có thời gian để thực hiện. Do đó, trong trường hợp này, tiếp thu ý kiến ĐBQH, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ báo cáo Quốc hội xem xét, cho lùi thời gian thông qua dự án, dự thảo sang kỳ họp sau theo quy trình hai kỳ họp Quốc hội, hoặc quyết định sang phiên họp khác của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

    Về xây dựng, ban hành thông tư liên tịch (Điều 110): Có ý kiến đề nghị quy định việc đăng tải dự thảo thông tư liên tịch trên cổng thông tin điện tử của các cơ quan cùng tham gia soạn thảo và ban hành văn bản này. Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo: đối với văn bản liên tịch, Luật BHVBQPPL quy định giao cho một cơ quan chịu trách nhiệm làm đầu mối, chủ trì soạn thảo và thực hiện các thủ tục cần thiết bao gồm cả việc đăng tải dự thảo trên cổng thông tin điện tử của cơ quan để xin ý kiến. Việc quy định như vậy là để bảo đảm đơn giản về thủ tục, thuận tiện trong tổ chức công việc, tránh một việc do nhiều cơ quan thực hiện, đồng thời rõ ràng về trách nhiệm. Vì vậy, đề nghị Quốc hội cho tiếp tục thực hiện nội dung này như Luật hiện hành.

    Về việc đánh giá tác động của chính sách đối với dự thảo nghị quyết của HĐND cấp tỉnh (Điều 119): Có ý kiến đề nghị chỉ thực hiện việc đánh giá tác động của chính sách đối với dự thảo nghị quyết của HĐND cấp tỉnh có quy định chính sách; bổ sung từ “nếu có” vào cuối khoản 1a Điều 119 và tại một số điều, khoản khác của dự thảo Luật.

    Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy, việc đánh giá tác động của chính sách đối với dự thảo nghị quyết của HĐND cấp tỉnh theo quy định của Luật hiện hành được thực hiện từ giai đoạn lập đề nghị xây dựng nghị quyết. Tuy nhiên, qua tổng kết 03 năm thi hành Luật, Chính phủ nhận thấy, quy trình này làm kéo dài thời gian ban hành văn bản, hạn chế khả năng phản ứng nhanh của chính quyền địa phương trong quản lý, điều hành kinh tế - xã hội. Do đó, để phù hợp hơn với điều kiện thực tế, tạo thuận lợi cho địa phương nhưng vẫn bảo đảm chất lượng xây dựng văn bản, dự thảo Luật đã sửa đổi theo hướng chuyển quy trình đánh giá tác động của chính sách từ giai đoạn lập đề nghị sang giai đoạn soạn thảo nghị quyết nhằm xem xét, đánh giá toàn diện các vấn đề trước khi trình cơ quan có thẩm quyền quyết định. Vì vậy, đề nghị Quốc hội cho giữ quy định về vấn đề này trong dự thảo Luật.

    Về thẩm định dự thảo nghị quyết do UBND cấp tỉnh trình (Điều 121): Có ý kiến đề nghị nâng thời hạn thẩm định của Sở Tư pháp từ 10 ngày lên thành 15 ngày hoặc quy định kéo dài thời hạn thẩm định trong trường hợp cần thiết. Tiếp thu ý kiến của ĐBQH, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho chỉnh lý tăng thời hạn thẩm định của Sở Tư pháp lên 15 ngày, đồng thời tăng thời hạn gửi hồ sơ từ 20 ngày lên 25 ngày trước ngày UBND cấp tỉnh họp như quy định tại Điều 121 của dự thảo Luật. Bên cạnh đó, tại Điều 134 và Điều 139 của dự thảo Luật cũng được điều chỉnh tăng thời hạn thẩm định của Phòng Tư pháp thuộc UBND cấp huyện, thời hạn gửi hồ sơ thẩm định tương ứng để bảo đảm tính thống nhất trong dự thảo Luật.

    Về thẩm định dự thảo quyết định của UBND cấp tỉnh (Điều 130): Có ý kiến đề nghị không quy định thành lập hội đồng thẩm định đối với dự thảo quyết định do Sở Tư pháp chủ trì soạn thảo có nội dung đơn giản; đề nghị quy định cụ thể trường hợp có thể không phải thành lập hội đồng thẩm định để thẩm định dự thảo quyết định của UBND cấp tỉnh.

    Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy, theo quy định hiện hành, thẩm định là một khâu bắt buộc trong quy trình xây dựng VBQPPL. Mục đích của hoạt động thẩm định là xem xét, phản biện một cách độc lập đối với dự thảo văn bản để báo cáo cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định việc ban hành. Trách nhiệm thẩm định hiện nay đang được giao cho cơ quan tư pháp, pháp chế ở địa phương. Đối với văn bản do Sở Tư pháp chủ trì soạn thảo, để bảo đảm tính khách quan thì việc thành lập hội đồng thẩm định để tiến hành thẩm định trước khi báo cáo UBND cấp tỉnh là cần thiết. Vì vậy, đề nghị Quốc hội cho phép không sửa đổi quy định này.

    Về ngưng hiệu lực của VBQPPL (Điều 153): Có ý kiến đề nghị trong trường hợp không thể triệu tập họp HĐND thì có thể giao Thường trực HĐND ban hành văn bản hành chính để ngưng hiệu lực nghị quyết của HĐND cùng cấp và báo cáo HĐND tại kỳ họp gần nhất.

    Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo: việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền tuyên bố một VBQPPL hết hiệu lực thi hành, ngưng hiệu lực toàn bộ hoặc một phần về nguyên tắc phải do chính cơ quan đã ban hành VBQPPL đó hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp trên thực hiện. Do đó, việc giao Thường trực HĐND ban hành văn bản hành chính để ngưng hiệu lực nghị quyết của HĐND cùng cấp là không phù hợp.

    Về xử lý mâu thuẫn, xung đột pháp luật: Có ý kiến đề nghị dự thảo Luật cần cụ thể hóa cơ chế bảo hiến trong Hiến pháp hoặc bổ sung quy định về trách nhiệm của Tòa án nhân dân tối cao trong việc xử lý xung đột, mâu thuẫn trong áp dụng nguyên tắc tại Điều 12 và Điều 156 của Luật BHVBQPPL. Có ý kiến đề nghị tại Điều 156 bổ sung quy định “trường hợp văn bản quy phạm pháp luật ban hành trước có quy định ưu tiên áp dụng pháp luật đối với vấn đề đó thì áp dụng quy định của văn bản ban hành trước”.

    Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy, nguyên nhân chủ yếu của tình trạng còn xảy ra một số mâu thuẫn, chồng chéo trong quy định giữa các luật là do ngay từ giai đoạn tổng kết, đánh giá, xây dựng dự thảo văn bản mới, các cơ quan liên quan chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm trong việc rà soát, phát hiện và xử lý kịp thời các nội dung có quy định khác nhau trong các văn bản luật ban hành trước. Trong hệ thống pháp luật của chúng ta, nguyên tắc xử lý xung đột đã được thống nhất và áp dụng nhất quán từ Luật BHVBQPPL năm 1996 đến nay là trong trường hợp các VBQPPL do cùng một cơ quan ban hành có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của văn bản ban hành sau. Nếu nay bổ sung nguyên tắc “ưu tiên áp dụng pháp luật” thì sẽ mâu thuẫn với nguyên tắc nêu trên, đồng thời khi có xung đột xảy ra giữa các luật thì không có cơ sở để xác định luật nào được áp dụng. Do đó, để hạn chế và khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo ngay từ khâu xây dựng văn bản, tiếp thu ý kiến ĐBQH, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo bổ sung vào dự thảo Luật quy định hồ sơ dự án gửi thẩm định, thẩm tra, trình Quốc hội phải có báo cáo về rà soát các VBQPPL có liên quan đến dự án, dự thảo; đồng thời bổ sung vào khoản 2 Điều 12 quy định “trường hợp VBQPPL đã ban hành có quy định khác với văn bản mới nhưng cần tiếp tục được áp dụng thì phải được chỉ rõ trong văn bản mới đó”.

    Về đề nghị cụ thể hóa cơ chế bảo hiến và quy định trách nhiệm của Tòa án nhân dân tối cao trong việc xử lý xung đột, mâu thuẫn pháp luật, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy đây là vấn đề hệ trọng, liên quan đến cơ chế phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong thực hiện quyền lực nhà nước, cần được tiếp tục nghiên cứu thận trọng, thấu đáo cả về cơ sở lý luận và thực tiễn trước khi cụ thể hóa thành luật.

    Về điều khoản thi hành: Có ý kiến đề nghị không cần thiết phải quy định chuyển tiếp trong dự thảo Luật, vì thời gian chuyển tiếp là rất ngắn và chủ yếu là tăng thêm trách nhiệm cho các cơ quan, về nguyên tắc không được áp dụng trước ngày Luật có hiệu lực. Tiếp thu ý kiến của ĐBQH, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho bỏ quy định chuyển tiếp trong dự thảo Luật, bảo đảm thống nhất thực hiện các quy định mới từ ngày Luật có hiệu lực.

    Ngoài những vấn đề nêu trên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo các cơ quan nghiên cứu các ý kiến của ĐBQH để tiếp thu, chỉnh lý nhiều điều, khoản cụ thể trong dự thảo Luật cả về nội dung và kỹ thuật văn bản, bảo đảm phù hợp với yêu cầu thực tế và thống nhất trong dự thảo Luật. Với Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Ủy ban Thường vụ Quốc hội trình Quốc hội xem xét, quyết định./.

    Bích Lan-Hoàng Quỳnh

    Theo Cổng thông tin điện tử Quốc hội

     

     

    Cập nhật bởi MinhPig ngày 18/06/2020 02:23:31 CH
     
    Báo quản trị |  
  • #549478   19/06/2020

    MinhPig
    MinhPig
    Top 75
    Female
    Lớp 12

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:06/04/2018
    Tổng số bài viết (804)
    Số điểm: 20259
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 767 lần


    Quốc hội đồng ý giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2020

    Sáng 19/6, Quốc hội thông qua Nghị quyết giảm 30% thuế thu nhập năm 2020 cho doanh nghiệp có doanh thu dưới 200 tỷ đồng.

    Nghị quyết được thông qua với tỷ lệ tán thành hơn 92%, hiệu lực sau 45 ngày ký và áp dụng cho kỳ tính thuế năm 2020.

    Như vậy, Quốc hội đã bỏ tiêu chí về số lao động đóng bảo hiểm để bảo đảm tính công bằng cho các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động và bổ sung đối tượng được giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp có quy mô vừa.

    Theo Chủ nhiệm Uỷ ban Tài chính Ngân sách Nguyễn Đức Hải, với việc mở rộng đối tượng được giảm thuế nêu trên, số giảm thu ngân sách Nhà nước năm 2020 tăng từ 15.840 tỷ đồng lên khoảng 23.000 tỷ đồng so với phương án Chính phủ trình.

    Trước khi Quốc hội biểu quyết, nhiều ý kiến cho rằng, ngoài giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cần có các giải pháp khác có tác dụng lớn và trực tiếp để giúp doanh nghiệp phục hồi sản xuất, kinh doanh.

    Ông Nguyễn Đức Hải cho hay, để hỗ trợ doanh nghiệp, tháo gỡ khó khăn và thúc đẩy sản xuất kinh doanh, tái khởi động nền kinh tế ứng phó với dịch Covid-19, Chính phủ đã chủ động xây dựng, thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp về tài khoá, thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất... Trong đó gói giải pháp gia hạn thời hạn nộp thuế, tiền thuê đất có giá trị khoảng 180.000 tỷ đồng.

    Ông cho biết tới đây, Chính phủ, các bộ, ngành sẽ có thêm nhiều giải pháp khác nhằm hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn vì Covid-19.

    Anh Minh

    Theo VnExpress

     

     
    Báo quản trị |  
  • #549484   19/06/2020

    MinhPig
    MinhPig
    Top 75
    Female
    Lớp 12

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:06/04/2018
    Tổng số bài viết (804)
    Số điểm: 20259
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 767 lần


    QUỐC HỘI THÔNG QUA LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT TỔ CHỨC QUỐC HỘI

    Tiếp tục Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XIV, chiều ngày 19/6, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu, Quốc hội biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội.

    Kết quả cho thấy 87,37% đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành với việc thông qua qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội. Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu nêu rõ: Với đa số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành, Quốc hội chính thức thông qua Luật này.

    Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội do Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Hoàng Thanh Tùng trình bày nêu rõ: Ngày 18/6/2020 Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã có Báo cáo số 567/BC-UBTVQH14 giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội gửi đến các vị đại biểu Quốc hội (ĐBQH).

    Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Hoàng Thanh Tùng trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội.

    Về đại biểu Quốc hội: Có ý kiến đề nghị sửa đổi quy định về tiêu chuẩn của ĐBQH là chỉ có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam. Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, theo quy định tại Điều 4 của Luật Quốc tịch, “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam, trừ trường hợp Luật này có quy định khác”. Như vậy, bản thân cụm từ “có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam” đã có nội hàm là chỉ có một quốc tịch Việt Nam, không có quốc tịch thứ hai. Hiện tại, ngoài Luật Quốc tịch, trong hệ thống pháp luật còn có ít nhất 02 luật khác đã sử dụng cụm từ “có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam” để xác định yêu cầu chỉ có một quốc tịch của công dân Việt Nam, đó là Luật Cán bộ, công chức và Luật Tổ chức chính quyền địa phương. Vì vậy, nếu Luật Tổ chức Quốc hội bổ sung từ “chỉ” trước cụm từ “có một quốc tịch” thì sẽ tạo ra sự thiếu thống nhất, gây ra cách hiểu khác đối với quy định của các luật có liên quan.

    Một số ý kiến đề nghị cần quy định tiêu chuẩn cụ thể cao hơn đối với ĐBQH, đồng thời, không quy định tiêu chuẩn về độ tuổi đối với ĐBQH. Ý kiến khác không tán thành và cho rằng, ĐBQH là người đại diện cho các giai tầng khác nhau trong xã hội nên không thể quy vào một tiêu chuẩn chung. Về vấn đề này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo như sau: Theo quy định tại Điều 27 của Hiến pháp thì công dân từ đủ 21 tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc hội. Điều này có nghĩa là, Hiến pháp chỉ quy định điều kiện về độ tuổi tối thiểu của người ứng cử vào đại biểu Quốc hội mà không có sự phân biệt đối xử hay hạn chế về thành phần xã hội, giới tính, dân tộc, tôn giáo, trình độ, năng lực chuyên môn, kinh nghiệm thực tiễn… Do vậy, ngoài các tiêu chuẩn chung của ĐBQH đã được Luật Tổ chức Quốc hội quy định, nếu đặt ra các tiêu chuẩn cao hơn thì sẽ làm hạn chế quyền ứng cử vào Quốc hội của công dân đã được quy định trong Hiến pháp.

    Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Hoàng Thanh Tùng cho biết: Theo quy trình bầu cử hiện nay, bên cạnh những người tự ứng cử thì phần lớn người tham gia ứng cử là đại diện do tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương lựa chọn, giới thiệu ứng cử để bảo đảm tỷ lệ đại diện hợp lý của các tầng lớp nhân dân trong Quốc hội. Đối với mỗi loại cơ quan, tổ chức, đơn vị thì hiện đã có những quy định riêng của Đảng, quy định của từng cơ quan, tổ chức trong việc xác định tiêu chuẩn, điều kiện khi xem xét, lựa chọn nhân sự. Để nâng cao chất lượng của ĐBQH nói chung thì từng cơ quan, tổ chức, đơn vị cần nâng cao trách nhiệm hơn nữa trong việc sàng lọc, lựa chọn, giới thiệu đại diện tiêu biểu, ưu tú nhất của mình tham gia ứng cử ĐBQH để cử tri có điều kiện lựa chọn người thực sự xứng đáng làm ĐBQH. Vì vậy, đề nghị Quốc hội cho phép không bổ sung nội dung này trong dự thảo Luật.

    Đa số ý kiến tán thành việc nâng tỷ lệ ĐBQH hoạt động chuyên trách lên 40% tổng số ĐBQH; ý kiến khác đề nghị nâng tỷ lệ này lên trên 50%. Để bảo đảm đạt được tỷ lệ này trên thực tế, có ý kiến đề nghị cần có giải pháp, quy định chặt chẽ hơn trong Đề án bầu cử và các văn bản hướng dẫn; đề nghị một số tỉnh, thành phố được bố trí thêm 01 ĐBQH hoạt động chuyên trách phù hợp với yêu cầu, đặc thù về địa giới hành chính, quy mô dân số. Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, việc tiếp thu ý kiến của đa số ĐBQH, nâng tỷ lệ ĐBQH hoạt động chuyên trách lên ít nhất là 40% đã thể hiện sự cân nhắc, tính toán kỹ nhằm tạo cơ sở pháp lý cho công tác quy hoạch, chuẩn bị nguồn nhân sự để giới thiệu tham gia ứng cử làm ĐBQH hoạt động chuyên trách, từ đó tăng cường tính chuyên nghiệp, góp phần quan trọng cho việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội. Để bảo đảm tính khả thi của quy định này, trong thời gian tới, Đề án bầu cử ĐBQH khóa XV sẽ cụ thể hóa các nội dung liên quan cũng như xem xét việc bố trí hợp lý số lượng ĐBQH hoạt động chuyên trách ở từng địa phương.

    Các đại biểu Quốc hội bấm nút thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội.

    Về Đoàn đại biểu Quốc hội (Điều 43): Về địa vị pháp lý của Đoàn ĐBQH, qua thảo luận, nhiều ý kiến đại biểu phát biểu đề nghị xác định Đoàn ĐBQH là một cơ quan của Quốc hội, là đại diện của Quốc hội ở địa phương, là chủ thể có địa vị pháp lý đầy đủ trong hệ thống chính trị ở địa phương. Tuy nhiên, ý kiến khác đề nghị không nên đặt vấn đề nâng địa vị pháp lý của Đoàn ĐBQH vì Đoàn ĐBQH không phải là cơ cấu của Quốc hội mà là một hình thức sinh hoạt của các ĐBQH được bầu ở một địa phương.

    Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, từ khi được ghi nhận trong Luật Tổ chức Quốc hội năm 1960 đến nay, Đoàn ĐBQH đã phát huy vai trò tổ chức, hỗ trợ, tạo điều kiện cho các ĐBQH thực hiện nhiệm vụ đại biểu tại địa phương, đồng thời giúp duy trì mối quan hệ gắn kết giữa Quốc hội với địa phương, là nơi tập hợp kiến nghị, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của cả chính quyền và cử tri địa phương đến với Quốc hội. Tuy nhiên, theo quy định của Hiến pháp, Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, là cơ quan duy nhất do cử tri cả nước bầu ra, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất; ở địa phương có HĐND là cơ quan đại diện của Nhân dân địa phương, cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Vì vậy, nếu xác định Đoàn ĐBQH là cơ quan của Quốc hội ở địa phương thì sẽ không phù hợp. Mặc dù Đoàn ĐBQH có một số nhiệm vụ nhất định trong việc tổ chức để ĐBQH trong đoàn tiếp công dân, tiếp xúc cử tri, lấy ý kiến về các dự án luật và công tác giám sát theo chương trình, kế hoạch chung của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, song việc thực hiện nhiệm vụ của Đoàn phải bảo đảm không trùng lắp hay làm thay nhiệm vụ của cơ quan dân cử khác. Tinh thần này cũng phù hợp với Nghị quyết số 18/NQ-TW của Hội nghị Trung ương 6 (khóa XII) về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Vì vậy, đề nghị Quốc hội cho giữ quy định về địa vị pháp lý của Đoàn ĐBQH như Luật hiện hành.

    Về bộ máy giúp việc Đoàn ĐBQH: Nhiều ý kiến đề nghị cần tổng kết, đánh giá việc thực hiện thí điểm theo Nghị quyết số 580/2018/UBTVQH14 để quyết định mô hình cơ quan tham mưu, giúp việc Đoàn ĐBQH phù hợp, hiệu quả, ổn định lâu dài. Một số ý kiến đề nghị kết thúc thí điểm và giữ mô hình 03 Văn phòng giúp việc như hiện hành; các ý kiến khác đề nghị chỉ hợp nhất Văn phòng Đoàn ĐBQH với Văn phòng HĐND cấp tỉnh và giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội hướng dẫn cụ thể về tổ chức và hoạt động của bộ máy giúp việc cho Đoàn ĐBQH.

    Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, theo Báo cáo số 232/BC-CP ngày 18/5/2020 của Chính phủ thì kết quả tổng kết sau hơn 01 năm thực hiện thí điểm cho thấy việc tổ chức một Văn phòng giúp việc chung cho 03 cơ quan theo mô hình thí điểm quy định tại Nghị quyết số 580/2018/UBTVQH14 chưa thực sự đáp ứng được mục tiêu đề ra là nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy tham mưu, giúp việc cho Đoàn ĐBQH, HĐND và UBND cấp tỉnh, chưa rõ được vai trò tham mưu trong hoạt động giám sát và quản lý, điều hành giữa cơ quan đại diện với cơ quan quản lý. Vì vậy, trên cơ sở tiếp thu ý kiến của ĐBQH, kết quả thực hiện thí điểm và theo đề nghị của Chính phủ, xin phép Quốc hội cho kết thúc việc thực hiện thí điểm theo Nghị quyết số 580/2018/UBTVQH14 và tổ chức Văn phòng tham mưu, giúp việc, phục vụ chung cho Đoàn ĐBQH và HĐND cấp tỉnh, Văn phòng tham mưu, giúp việc, phục vụ riêng cho UBND cấp tỉnh. Đối với các địa phương đang thực hiện thí điểm sẽ chuyển ngay sang mô hình nêu trên; ở các địa phương còn lại thì sẽ hoàn thành việc chuyển giao và thực hiện từ nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV và HĐND nhiệm kỳ 2021 - 2026. Do đó, khoản 4 Điều 43 của Luật Tổ chức Quốc hội được sửa đổi như trong dự thảo Luật. Đồng thời, bổ sung quy định chuyển tiếp tại khoản 2 Điều 2 của Luật này để xác định lộ trình hoàn thành việc thành lập Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.

    Về Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội (Chương IV): Nhiều ý kiến tán thành việc đổi tên hai Ủy ban như dự thảo Luật, nhưng vẫn có ý kiến đề nghị cân nhắc chưa nên đổi tên 02 Ủy ban này hoặc đề nghị đổi tên Ủy ban về các vấn đề Xã hội thành Ủy ban Y tế và An sinh. Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo như sau: phạm vi các lĩnh vực phụ trách của từng Ủy ban đã được nêu cụ thể tại quy định của Luật về nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan. Như đã giải trình trước đây, tên gọi của các cơ quan cần ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, thể hiện khái quát được lĩnh vực hoạt động chủ yếu của cơ quan để phân biệt với các cơ quan khác. Việc đổi tên Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng thành Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, đổi tên Ủy ban về các vấn đề Xã hội thành Ủy ban Xã hội cũng được các cơ quan của Quốc hội và đa số các vị ĐBQH ủng hộ nên đề nghị cho giữ nội dung này trong dự thảo Luật để bắt đầu thực hiện từ Quốc hội khóa XV.

    Về phạm vi lĩnh vực phụ trách của các Ủy ban: Có ý kiến đề nghị chuyển lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng từ Ủy ban Kinh tế sang Ủy ban Tài chính- Ngân sách. Ý kiến khác đề nghị giữ nguyên lĩnh vực hoạt động của Ủy ban Kinh tế và Ủy ban Tài chính - Ngân sách như hiện nay. Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, thực tế hoạt động các nhiệm kỳ vừa qua cho thấy, Ủy ban Kinh tế, Ủy ban Tài chính - Ngân sách đã có nhiều cố gắng, hoàn thành tốt nhiệm vụ trong các lĩnh vực được giao. Mặc dù còn ý kiến khác nhau đối với việc xác định lĩnh vực phụ trách của 02 Ủy ban này (cụ thể là lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng) song do chưa có sự nghiên cứu, tổng kết, đánh giá tác động đầy đủ nênđề nghị Quốc hội trước mắt cho giữ các lĩnh vực phụ trách của 02 Ủy ban như quy định tại Luật Tổ chức Quốc hội hiện hành để bảo đảm tính ổn định.

    Về việc chuyển Ban thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội thành cơ quan chuyên môn thuộc Quốc hội: Về vấn đề này, qua thảo luận, nhiều ý kiến đại biểu phát biểu đề nghị chuyển Ban Công tác đại biểu và Ban Dân nguyện thành cơ quan chuyên môn thuộc Quốc hội để phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình hiện nay.

    Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, việc nghiên cứu chuyển một số Ban của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thành Ban thuộc Quốc hội được nêu trong Kết luận số 64-KL/TW ngày 28/5/2013 của Hội nghị Trung ương 7 (khóa XI) đã được Quốc hội khóa XIII thảo luận, cân nhắc kỹ khi sửa đổi Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014. Tuy nhiên, do ý kiến còn khác nhau nên Quốc hội khóa XIII đã quyết định chưa chuyển các Ban thành cơ quan thuộc Quốc hội. Từ đó đến nay, Trung ương, Bộ Chính trị đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo về việc tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, đặc biệt là Nghị quyết số 18-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 6. Do đó, tuy Quốc hội có thẩm quyền quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội nhưng để quyết định thành lập các Ban thuộc Quốc hội thì vấn đề quan trọng là phải xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ công tác của các cơ quan này để không chồng chéo với các cơ quan hiện có. Các phương án về việc thành lập hay chuyển các Ban thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội thành Ban thuộc Quốc hội vẫn còn nhiều vấn đề vướng mắc về mặt pháp lý. Vì vậy, trong khi chưa xác định được phương án thực sự hợp lý, có tính thuyết phục và đồng thuận cao, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin phép Quốc hội cho giữ quy định về địa vị pháp lý của các Ban như Luật Tổ chức Quốc hội hiện hành. Để nâng cao hiệu quả của công tác đại biểu dân cử, công tác dân nguyện, trong thời gian tới, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ tiếp tục nghiên cứu, có các giải pháp cụ thể để cải tiến về quy trình, cách thức tổ chức thực hiện các nhiệm vụ này, quy định về chế độ, chính sách hợp lý để nâng cao hiệu quả hoạt động của các Ban.

    Về thời điểm có hiệu lực thi hành của Luật: Có ý kiến đề nghị Luật có hiệu lực từ ngày 01/01/2021 để có cơ sở pháp lý áp dụng trong quá trình chuẩn bị nhân sự bầu cử ĐBQH khóa XV. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy ý kiến này là hợp lý và xin được tiếp thu, chỉnh lý lại quy định tại Điều 2 của dự thảo Luật. Ngoài những nội dung đã tiếp thu, giải trình trên đây, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo nghiên cứu, rà soát kỹ lưỡng để tiếp thu tối đa ý kiến của các vị ĐBQH, chỉnh lý cả về nội dung và kỹ thuật lập pháp, rà soát về ngôn ngữ đối với các quy định trong dự thảo Luật. Với Báo cáo tóm tắt giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội trình Quốc hội xem xét, thông qua./.

     

    Bích Lan-Hoàng Quỳnh

    Theo Cổng thông tin điện tử Quốc hội

     

     
    Báo quản trị |