Chào bạn! Trước tiên cho tôi gửi lời sẻ chia, cảm thông tới gia đình chị đang gặp phải. Chị hãy nghĩ kĩ nhé xem lỗi lầm của anh ý có thể bỏ qua được không? Hai vợ chồng hãy bình tĩnh, nói chuyện với nhau, nếu không được thì có thể nhờ gia đình, bạn bè khuyên nhủ thuyết phục, chú sống với nhau đã có 2 đứa trẻ hãy nghĩ tới tương lai hai đứa trẻ chị nhé! Chúc chị bình tĩnh, sáng suốt lựa chọn con đường đi của mình. Trường hợp của chị tôi tư vấn như sau:
Điều kiện tòa xem xét cho ly hôn
Theo quy định tại Điều 89 Luật hôn nhân gia đình thì ăn cứ cho ly hôn "nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được" thì tòa án sẽ xem xét giải quyết việc ly hôn cho hai vợ chồng.
Tuy nhiên, trường hợp của chị là chị đang mang thai được 3 tháng tuổi thì theo quy định tại Điều 85 Luật hôn nhân gia đình không cho phép trong trường hợp người phụ nữ đang mang thai thì người chồng nộp đơn xin ly hôn tuy nhiên theo hướng dẫn tại mục 6 Nghị quyết02/2000/NQ-HĐTP như sau:
6. Quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn (Điều 85)
Theo quy định tại Điều 85 thì vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn. Tuy nhiên, người chồng không có quyền yêu cầu xin ly hôn khi vợ đang có thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Luật chỉ quy định "vợ đang có thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi"; do đó, khi người vợ đang thuộc một trong các trường hợp này (không phân biệt người vợ có thai với ai hoặc bố của đứa trẻ dưới 12 tháng tuổi là ai), mà người chồng có yêu cầu xin ly hôn, thì giải quyết như sau:
a. Trong trường hợp chưa thụ lý vụ án thì Toà án áp dụng điểm 1 Điều 36 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự trả lại đơn kiện cho người nộp đơn.
b. Trong trường hợp đã thụ lý vụ án thì Toà án cần giải thích cho người nộp đơn biết là họ chưa có quyền yêu cầu xin ly hôn. Nếu người nộp đơn rút đơn yêu cầu xin ly hôn thì Toà án áp dụng điểm 2 Điều 46 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án. Nếu người nộp đơn không rút đơn yêu cầu xin ly hôn thì Toà án tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung và quyết định bác yêu cầu xin ly hôn của họ.
Như vậy chiếu theo quy định trên nếu trong trường hợp hai vợ chồng chị thuận tình ly hôn, hoặc có đơn xin ly hôn đơn phương của chị thì tòa án sẽ xem xét giải quyết việc ly hôn của chị.
Về nuôi con và nghĩa vụ cấp dưỡng
Theo quy định tại 92 Luật hôn nhân gia đình và hướng dẫn cụ thể tại mục 11 Nghị quyết02/2000/NQ-HĐTP như sau:
11. Việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con sau khi ly hôn (Điều 92).
Khi áp dụng quy định tại Điều 92 cần chú ý một số điểm sau đây:
a. Theo quy định tại khoản 1 Điều 92 thì người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Đây là nghĩa vụ của cha, mẹ; do đó, không phân biệt người trực tiếp nuôi con có khả năng kinh tế hay không, người không trực tiếp nuôi con vẫn phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
Trong trường hợp người trực tiếp nuôi con không yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cấp dưỡng vì lý do nào đó thì Toà án cần giải thích cho họ hiểu rằng việc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con là quyền lợi của con để họ biết nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con. Nếu xét thấy việc họ không yêu cầu cấp dưỡng là tự nguyện, họ có đầy đủ khả năng, điều kiện nuôi dưỡng con thì Toà án không buộc bên kia phải cấp dưỡng nuôi con.
b. Tiền cấp dưỡng nuôi con bao gồm những chi phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng và học hành của con và do các bên thoả thuận. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được thì tuỳ vào từng trường hợp cụ thể, vào khả năng của mỗi bên mà quyết định mức cấp dưỡng nuôi con cho hợp lý.
c. Về phương thức cấp dưỡng do các bên thoả thuận định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc một lần. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được thì Toà án quyết định phương thức cấp dưỡng định kỳ hàng tháng.
d. Trong trường hợp vợ, chồng không thoả thuận được về người trực tiếp nuôi con thì Toà án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi con căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con, đặc biệt là các điều kiện cho sự phát triển về thể chất, bảo đảm việc học hành và các điều kiện cho sự phát triển tốt về tinh thần. Nếu con từ đủ chín tuổi trở lên, thì trước khi quyết định, Toà án phải hỏi ý kiến của người con đó về nguyện vọng được sống trực tiếp với ai.
Về nguyên tắc, con dưới ba mươi sáu tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi con, nếu các bên không có thoả thuận khác.
Như vậy, theo quy định viện dẫn trên trong trường hợp của chị việc con chị còn hai tháng nữa là tròn 3 tuổi, hoặc trong thời gian chị ly hôn tòa án thụ lý giải quyết vụ án của chị lúc đó bé đủ 3 tuổi thì tòa vẫn xem xét yếu tố kinh tế, thu nhập hàng tháng của hai vợ chồng mà thu nhập của chị khoảng 13/T một tháng cũng là một căn cứ chứng minh chị có đủ khả năng để giành quyền nuôi con.
Tòa án có thẩm quyền giải quyết
Theo quy định tại Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự 2011 như sau:
“Điều 35. Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ
1. Thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án theo lãnh thổ được xác định như sau:
a) Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật này;
b) Các đương sự có quyền tự thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức giải quyết những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật này;
c) Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quy���t những tranh chấp về bất động sản.
Chiếu theo quy định viện dẫn trên nếu trong trường hợp hai vợ chồng chì đồng ý thì có thể chọn một trong hai tòa án nhân dân quận huyện thuộc tỉnh thành phố nơi hai người cư trú làm việc để giải quyết.. Nếu anh ý đồng ý ly hôn tại tòa án nhân dân quận huyện thành phố Hồ Chí minh thì tòa án ở đó có thẩm quyền giải quyết.
Nếu anh ý không đồng ý việc giải quyết việc ly hôn tại tòa án nhân dân quận huyện TPHCM thì chị phải khởi kiện, nộp đơn ly hôn tại tòa án nơi anh ý cư trú trên địa bạn Hà Nội.
Hồ sơ ly hôn gồm có
Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn
Chứng minh thư, sổ hộ hẩu của cả hai vợ chồng (trong trường hợp ly hôn thuận tình)
Chứng minh thư, sổ hộ khẩu của chị (ly hôn đơn phương)
Đơn xin ly hôn (mẫu nghị quyết02/2006/NQ-HĐTP, hoặc chị đến trực tiếp tòa án xin mẫu đơn)
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Sổ tiết kiệm
Giấy tờ khác chứng minh tài sản chung của hai vợ chồng (nếu có)
Giấy khai sinh
Trân trọng!
Cập nhật bởi leanhthu ngày 28/08/2012 11:45:19 SA
Cập nhật bởi leanhthu ngày 28/08/2012 11:44:26 SA
Để được giải đáp mọi thắc mắc vui lòng liên hệ, LS. Lê Văn Thư - SĐT: 0977184216 ; Công ty Luật TNHH Thành Thái
Trụ sở: Tổ 13, Phường Yên Nghĩa, Quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội
Tel: SĐT 0977184216, Email: luatthanhthai@gmail.com; facebook: https://www.facebook.com/luatthanhthai.vn/; skype: leanhthu307
Trân trọng!