Khởi kiện ra Tòa án để đòi lại công lý lẽ phải cho mình không phải cách lựa chọn hàng đầu của người Việt Nam. Nhiều người vẫn còn có tâm lý rất e dè khi đối diện với cơ quan Nhà nước bởi nhiều lý do chủ quan và khách quan. Bài viết sau đây, xin chia sẻ một vài quan điểm về thói quen “vô phúc đáo tụng đình” của người Việt Nam.
Thói quen ứng xử nặng tình nhẹ lý của người Việt đã đem lại những hệ quả tiêu cực trong văn hóa ứng xử với pháp luật xưa và nay. Ý thức tôn trọng pháp luật và tính chủ động sử dụng pháp luật là những điểm yếu lớn nhất trong thực tiễn pháp lý ở nước ta hiện nay. Điển hình như là đối với người dân, số đông vẫn e dè khi nói đến việc kiện tụng, giải quyết tranh chấp bằng luật pháp. Đối với doanh nghiệp, việc giải quyết các tranh chấp không cần đến pháp luật vẫn còn tồn tại khá phổ biến. Những thế lực lớn ngầm dần thâu tóm các doanh nghiệp nhỏ và khiến cho nền kinh tế bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Điều này trái ngược hẳn với giới doanh nhân quốc tế. Rất ít doanh nghiệp có luật sư, chuyên viên pháp chế chuyên trách làm công tác pháp lý để dự báo và giải quyết các vấn đề pháp lý nảy sinh.
Trong xã hội Việt Nam cổ truyền, cái truyền thống trọng tình hơn lý đã khiến cho pháp luật không phải là một cách giải quyết tranh chấp được ưa chuộng. Một mặt, họ cho rằng quan liêu, cửa quyền sẽ không mang lại cho họ kết quả như mong muốn nhờ pháp luật. Từ nhận thức đó dẫn đến hành vi sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền lợi cho mình không trở thành một thói quen ứng xử phổ biến của người dân. Mặt khác, câu thành ngữ “vô phúc đáo tụng đình” thể hiện thái độ của người dân coi chuyện ra toà là một cái gì đó ghê gớm, làm tổn hại thanh danh và sứt mẻ tình cảm, vì “một đời kiện, chín đời thù”. Thực tế ấy cho thấy, trong một xã hội mà nếu cái tình được đặt ở vị trí được ưu tiên hơn, thậm chí lấn át cái lý thì pháp luật tất yếu sẽ không được coi là một công cụ quan trọng để điều tiết các quan hệ xã hội.