09/05/2014
Đề cương ôn tập Lịch sử văn minh thế giới có đáp án - Phần 1
Câu 1:Cơ sở hình thành và thành tựu cơ bản của văn minh Ai Cập
1. Cơ sở hình thành:
Ai Cập nằm ở Đông Bắc Châu Phi, hạ lưu sông Nin. Sông Nin là một con sông dài nhất thế giới, khoảng 6500 km chảy từ Trung Phi lên Bắc Phi. Hàng năm, tới mùa mưa nước sông Nin cuồn cuộn đỏ phù sa bồi đắp cho những cánh đồng ở hạ lưu sông Nin. Đất đai màu mỡ, cây cỏ tốt tươi, các loài động thực vật phong phú, nên ngay từ thời nguyên thuỷ con người đã tập trung sinh sống ở đây đông hơn các khu vực xung quanh.
Tới cách ngày nay khoảng 6000 năm, con người ở đây đã biết sử dụng những công cụ, vũ khí bằng đồng. Công cụ bằng đồng giúp con người ở đây chuyển sang sống chủ yếu nhờ nghề nông, thoát khỏi cuộc sống săn bắn, hái lượm và sớm bước vào xã hội văn minh. Chính vì vậy mà cách đây hơn 2000 năm trước, một nhà sử học Hy Lạp là Hêrôđôt tới thăm Ai Cập đã có một nhận xét rất hay là “ Ai Cập là tặng phẩm của sông Nin”.
Về mặt dân cư, những cư dân cổ nhất ở lưu vực sông Nin là những thổ dân Châu Phi hình thành trên cơ sở hỗn hợp nhiều bộ lạc. Sau này, một số bộ tộc Hamit (Hamites) từ Tây Á xâm nhập hạ lưu sông Nin. Trải qua một quá trình hỗn hợp lâu dài giữa người Hamit và thổ dân Châu Phi đã hình thành ra những tộc người Ai Cập cổ đại.
Các thời kì lịch sử chính của Ai Cập cổ đại : Lịch sử Ai Cập cổ đại có thể chia ra làm 5 thời kì chính sau :
• Thời kì TảoVương quốc ( khoảng 3200 - 3000 năm TCN )
• Thời kì Cổ Vương quốc ( khoảng 3000 - 2200 năm TCN )
• Thời kì Trung Vương quốc ( khoảng 2200 - 1570 năm TCN )
• Thời kì Tân Vương quốc ( khoảng 1570 - 1100 năm TCN )
• Thời kì Hậu Vương quốc ( khoảng 1100 - 31 năm TCN )
2. Thành tựu cơ bản:
a) Chữ viết: Khoảng hơn 3000 nămTCN, người Ai Cập cổ đại đã sáng tạo ra chữ tượng hình . Muốn chỉ một vật gì thì họ vẽ những nét tiêu biểu của sự vật đó. Để diễn tả những khái niệm trừu tượng thì họ mượn ý. Thí dụ để diễn tả trạng thái khát thì họ vẽ ba làn sóng nước và cái đầu bò đang cúi xuống; để nói lên sự công bằng thì họ vẽ lông chim đà điểu ( vì lông đà điểu hầu như dài bằng nhau ).
Từ chữ tượng hình, sau này người Ai Cập cổ đại đã hình thành ra hệ thống 24 chữ cái. Vào thiên niên kỉ II TCN, người Híchxốt đã học cách viết của người Ai Cậpđể ghi lại các ngôn ngữ của mình. Về sau này, loại chữ viết ấy lại ít nhiều ảnh hưởng tới người Phênixi và người Phênixi đã sáng tạo ra vần chữ cái A , B ...Những chữ tượng hình của người Ai Cập được khắc trên đá, viết trên da, nhưng nhiều nhất là được viết trên vỏ cây sậy papyrus. Đây là một loại “giấy” cổ xưa nhất, do vậy ngôn ngữ nhiều nước trên thế giới, giấy được gọi là papes, papier ...Năm 1822, một nhà ngôn ngữ học người Pháp là Sampôliông ( Champollion ) đã tìm cách đọc được thứ chữ này.
b) Về văn học: những tác phẩm tiêu biểu còn lại như Truyện hai anh em, Nói Thật và Nói Láo, Đối thoại của một người thất vọng với linh hồn của mình , Người nông phu biết nói những điều hay ...
c) Tôn giáo : Người Ai Cập cổ đại theo đa thần giáo, họ thờ rất nhiều thần. Ban đầu, mỗi vùng thờ mỗi vị thần riêng của mình, chủ yếu là những vị thần tự nhiên. Đến thời kì thống nhất quốc gia, bên cạnh những vị thần riêng của mỗi địa phương còn có các vị thần chung như thần Mặt trời ( Ra ), thần sông Nin (Osiris ).
Người Ai Cập cổ tin rằng con người có hai phần : hồn và xác. Khi con người chết đi, linh hồn thoát ra ngoài nhưng có thể một lúc nào đó lại tìm về nơi xác ( Họ tin rằng như khi bị ngất , hồn thoát ra ngoài tạm thời ). Vì vậy những người giàu có tìm mọi cách để giữ gìn thể xác. Kĩ thuật ướp xác vì vậy cũng rất phát triển.
d) Kiến trúc điêu khắc : Người Ai Cập cổ đại đã xây dựng rất nhiều đền đài, cung điện, nhưng nổi bật nhất phải kể đến là các kim tự tháp hùng vĩ, vĩnh cửu. Người thiết kế ra Kim tự tháp đầu tiên để làm nơi yên nghỉ cho các pharaon là Imhotép. Người ta đã phát hiện ra khoảng 70 Kim tự tháp lớn nhỏ khác nhau trong đó có 3 Kim tự tháp nổi tiếng nằm ở gần thủ đô Cairo. Lớn nhất là Kim tự tháp Kêôp ( Kheops ) cao tới 146m, đáy hinh vuông , mỗi cạnh tới 230m. Đã mấy ngàn năm qua các Kim tự tháp vẫn sừng sững với thời gian. Vì vậy người Ai Cập có câu “ Tất cả mọi vật đều sợ thời gian, nhưng riêng thời gian phải nghiêng mình trước Kim tự tháp”. Ngoài việc xây dựng các lăng mộ, người Ai Cập cổ còn để lại ấn tượng cho đời sau qua các công trình điêu khắc. Đặc biệt nhất là tượng Nhân Sư (Sphinx ) hùng vĩ ở gần Kim tự tháp Khephren. Bức tượng mình sư tử với gương mặt Khephren cao hơn 20m này có lẽ muốn thể hiện Khephren là chúa tể với trí khôn của con người và sức mạnh của sư tử.
e) Khoa học tự nhiên :
Về thiên văn: người Ai Cập cổ đã vẽ được bản đồ sao, họ đã xác định 12 cung hoàng đạo và sao Thuỷ,Kim, Hoả, Mộc, Thổ. Người Ai Cập cổ làm ra lịch dựa vào sự quan sát sao Lang ( Sirius ). Một năm của họ có 365 ngày, đó là khoảng cách giữa hai lần họ thấy sao Lang xuất hiện đúng đường chân trời. Họ chia một năm làm 3 mùa, mỗi mùa có 4 tháng, mỗi tháng có 30 ngày. Năm ngày còn lại được xếp vào cuối năm làm ngày lễ. Để chia thời gian trong ngày, họ đã chế ra đồng hồ mặt trời và đồng hồ nước.
Về toán học: do yêu cầu làm thuỷ lợi và xây dựng nên kiến thức toán học của người Ai Cập cổ cũng sớm được chú ý phát triển. Họ dùng hệ đếm cơ số 10. Họ rất thành thạo các phép tính cộng trừ, còn khi cần nhân và chia thì thực hiện bằng cách cộng trừ nhiều lần. Về hình học, họ đã tính được diện tích của các hình hình học đơn giản; đã biết trong một tam giác vuông thì bình phương cạnh huyền bằng tổng bình phương hai cạnh góc vuông. Pi của họ tính = 3,14 .
Về Y học: người Ai Cập cổ đã chia ra các chuyên khoa như khoa nội, ngoại , mắt, răng, dạ dày ... Họ đã biết giải phẫu và chữa bệnh bằng thảo mộc.
Câu 2:Quá trình hình thành đạo Hồi , Ảnh hưởng của Việt Nam?
a) Quá trình hình thành Đạo Hồi
Hồi giáo là một tôn giáo lớn được sang lập vào thời trung đại và nhanh chóng trở thành niềm phấn khích của các đại đế chế. Điểm khởi đầu là tại bán đảo Arập mà người sáng lập ra là Muhammad
Theo truyền thuyết vào năm 610 Muhammad nhìn thấy một thiên sứ và nói với ông rằng phải vâng theo vị thần linh duy nhất là Đấng Allah “Đấng dạy cho con người những điều chưa biết”. Từ đó ông đã nhận ra sứ mệnh của mình là truyền giảng tư tưởng đơn thuần. Sự ra đời của Hồi giáo đã làm giảm sút sự ảnh hưởng của các thương gia giàu có nhờ quyền bán ảnh tượng (Ảnh tượng các vị thần trong đền thánh mécca) mà người dân đang tôn sung, vì thế đã xó những âm mưu hãm hại Muhammad, biết được điều đó Muhammad đã phải lánh khỏi Mecca năm 622. Tuy nhiên chính nhờ chuyến đi này mà giáo thuyết của ông đã tỏa rạng và đánh dấu cho sự mở đầu cả Hồi giáo, Tín đồ Hồi giáo đã lấy năm 622 là năm thứ nhất của lịch Hồi giáo
Cuộc lánh nạn của Muhammad đã trở thành huyền thoại, ông thu phục tín đò trên đường lánh nạn, chỉ trong vòng 10 năm từ người trốn tránh kẻ thù nghịch Muhammad trở thành lành tụ tôn giáo có nhiều tín đồ.
b) Ảnh hưởng của Đạo Hồi tới Việt Nam
Sự du nhập Hồi giáo vào Việt Nam
Hồi giáo truyền vào khu vực Đông Nam Á khá sớm, khoảng thế kỷ XI, XII. Nếu so với các khu vực Hồi giáo khác trên thế giới, thì việc truyền bá Hồi giáo vào Đông Nam Á chủ yếu bằng con đường "hoà bình" qua những thương nhân Ảrập, Ấn Độ, Ba Tư. Những thế kỷ đầu sau khi ra đời, Hồi giáo phát triển nhanh như vũ bão bằng chiến tranh với công thức “thanh gươm - vó ngựa - kinh Qur'an". Tuy nhiên, khi chinh phục được Ấn Độ, đoàn quân Hồi giáo đã mệt mỏi, lại đứng trước biển cả mênh mông đã cản bước tiến quân các chiến binh Hồi giáo đến khu vực Đông Nam Á nên Hồi giáo đành phải truyền bá đến đây qua các thương nhân và các giáo sỹ. Chính sự du nhập và phát triển bằng con đường "hoà bình", lại từ nguồn Hồi giáo Ấn Độ đã dung hoà với văn hoá Ấn Độ nên Hồi giáo ở khu vực Đông Nam Á thường bị pha trộn với tín ngưỡng, phong tục tập quán địa phương. Điều này khác hẳn với những nơi Hồi giáo bành trướng bằng những cuộc chiến tranh chinh phục. Hồi giáo khu vực Đông Nam Á nói chung, ở Việt Nam nói riêng ít chịu ảnh hưởng của tư tưởng chủ nghĩa Hồi giáo như một số khu vực khác.
Hồi giáo du nhập vào Việt Nam qua các thời điểm khác nhau. Theo Tống sử Trung Quốc thì thế kỷ X đã thấy người Chăm khi giết trâu để cúng, họ đều cầu nguyện câu kinh đề cao Thượng đế Allah của người Hồi giáo, điều này có thể giả định từ thế kỷ thứ X, Hồi giáo đã được truyền vào đất Chiêm Thành.
Vậy có thể nói: Từ thế kỷ X, tín ngưỡng Hồi giáo đã manh nha ở Vương quốc Chămpa thông qua các thương nhân từ Trung Cận Đông đem vào, gây ảnh hưởng nhất định trong đời sống tâm linh người Chămpa. Nhưng Hồi giáo không phát triển, có lẽ vì lòng sùng tín thần thánh Bàlamôn giáo, tập tục, lễ nghi cùng chế độ mẫu hệ đã bén rễ ăn sâu, trở thành truyền thống trong xã hội Chămpa, trải qua hơn nghìn năm không dễ gì thay đổi. Vì vậy, ở Vương quốc Chămpa cổ vào khoảng trước năm 1470 Hồi giáo chưa phải là tôn giáo chính thống của người Chăm.
Sau năm 1470, một bộ phận cư dân Chămpa lưu tán đã tiếp xúc với người Malaysia, Indonesia, Campuchia... và họ bắt đầu tìm hiểu Hồi giáo ở các nước đó, nhiều người Chăm bỏ tôn giáo truyền thống (đạo Bàlamôn) để theo Hồi giáo. Những người Chăm khi tiếp thu được tôn giáo mới, họ quay về nước để truyền lại cho đồng bào mình. Từ đó Hồi giáo có chỗ đứng đáng kể trong cộng đồng cư dân Chămpa và chính thời điểm này sự giao hoà giữa đạo Islam và đạo Bàlamôn đã sản sinh ra một tôn giáo mới của người Chăm, đó là đạo Bàni tại miền Nam Trung bộ.
Vào năm 1840, dưới triều Nguyễn, quan bảo hộ Chân Lạp là Trương Minh Giảng bị quân của An Dương - Campuchia đánh bại phải rút chạy về vùng thượng nguồn sông Tiền (Châu Đốc - An Giang ngày nay) mang theo quân lính và người Chàm, người Mã lai theo Hồi giáo, lúc đó nhà Nguyễn dựa vào lực lượng này lập các đội quân để giữ biên giới. Từ đó hình thành vùng thứ hai theo Hồi giáo chính thống của người Chăm - đạo Islam.
Những năm cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, vùng Sài Gòn - Gia Định mở rộng giao lưu buôn bán với một số quốc gia phương tây, từ đó trở thành trung tâm buôn bán của Nam bộ. Các thương nhân đã thu nhận người Malaysia, Indonesia, Ấn Độ theo Hồi giáo. Tuy nhiên, cho mãi đến cuối thế kỷ XIX khi Nam bộ bị Pháp chiếm đóng, quá trình giao thương với bên ngoài ngày càng phát triển, là môi trường và điều kiện để cho người Malaysia và Indonesia nhập cư vào đất này đông hơn. Ngoài ra, trong khoảng thời gian từ năm 1880 - 1890, ở Gia Định cũng xuất hiện một bộ phận người Ấn Độ, Pakistan có tín ngưỡng Hồi giáo là những thương nhân làm nghề buôn bán tơ lụa, đồ gia vị cho những tiệm buôn, quán ăn. Đó là nguồn gốc hình thành cộng đồng cư dân ngoại lai theo Hồi giáo ở TP. Hồ Chí Minh cho tới ngày nay.
II. Đức tin và giáo luật của Hồi giáo
1. Cũng như bất cứ một tôn giáo nào, giáo lý Hồi giáo cũng bao gồm những quan niệm về thế giới và con người. Tuy nhiên, giáo lý Hồi giáo chứa đựng yếu tố tín ngưỡng cổ của người Ảrập. Cơ sở giáo lý Hồi giáo là niềm tin vào Thượng đế Allah và Thiên sứ Mohammad, tin vào thiên thần và sự bất tử của linh hồn, tin vào ngày phục sinh và phán xét cuối cùng. Đặc biệt là tin vào sự vĩnh cửu của kinh Qur'an và luật Sariat.
Kinh Qur'an là thánh thư của Hồi giáo, được thiết lập gồm 30 phần, 114 chương (Surah) với 6.211 câu (Ayat) và được viết bằng tiếng Ảrập. Theo Hồi giáo, kinh Qur'an là những lời giáo huấn của Thượng đế cho mọi người mà Thiên sứ Mohammad đã nhận được qua thiên thần Gabriel trong khoảng 22 năm (610-632). Thực ra, kinh Qur'an là tập hợp những lời thuyết đạo của Mohammad lúc còn tại thế, mãi về sau này được sưu tầm, biên soạn thành văn bản chính thức lưu truyền cho đến ngày nay. Kinh Qur'an được người Hồi giáo coi là "cuốn sách vĩ đại nhất, thông thái nhất" chứa đựng mọi "chân lý và tri thức" của loài người.
Thực tiễn cho thấy, kinh Qur'an không chỉ đơn thuần là kinh sách tôn giáo mà nó còn có ý nghĩa về tính pháp lý trong xã hội, có nhiều quy định về vệ sinh, ăn ở, hôn nhân, cách cư xử trong gia đình và trong quan hệ xã hội như: quan hệ mua bán, tài chính, chính trị - có cả tội ác và hình phạt. Đây là một đặc điểm quan trọng nhất của Hồi giáo, nó thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa đạo với đời, giữa tôn giáo và chính trị.
Ngoài những điều, những hành vi cuộc sống thường nhật của con người mà kinh Qur'an không quy định, hành vi “đối nhân xử thế” của Mohammad hoặc những việc làm của tín đồ mà không bị ngăn cấm đều được coi như những điều luật về tôn giáo và đạo đức của con người. Sự ghi nhận đó là cơ sở và nguồn gốc sách luật thứ hai của tín ngưỡng Hồi giáo - luật Sariat.
2. Hồi giáo là một tôn giáo không có hệ thống phẩm trật chức sắc, tuy nhiên giáo luật Hồi giáo lại chứa đựng nhiều nội dung và hành vi xử thế trong cuộc sống xã hội - con người có tính chất bắt buộc cao và rất khắt khe. Nó vượt ra khỏi phạm vi đức tin và những sinh hoạt tôn giáo thuần tuý để trở thành tiêu chuẩn pháp lý trong đời sống xã hội, chi phối mọi hoạt động của người Hồi giáo. Vì vậy, một số quốc gia Hồi giáo áp dụng và đưa luật Hồi giáo vào quản lý đất nước hoặc được thực hiện với luật pháp nhà nước. Giáo luật Hồi giáo tập trung vào 5 điều sống đạo cơ bản (còn gọi là 5 cốt đạo) sau đây:
- Xác tín hoặc còn gọi là biểu lộ đức tin (Tawhid).
- Cầu nguyện mỗi ngày (Solah).
- Tháng lễ Ramadan - tháng 9 Hồi lịch.
- Bố thí (Zakat).
- Hành hương (Hadji) viếng thánh địa Mecca.
Ngoài ra, những tín đồ Hồi giáo còn có nghĩa vụ dự thánh chiến (Jihad).
B. HỒI GIÁO Ở VIỆT NAM
I. Những đặc điểm chủ yếu
Ở nước ta, cộng đồng cư dân Chăm theo Hồi giáo mang tính đặc thù rõ nét, được chia thành 2 dòng khác nhau. Người ta thường gọi là Chăm Islam và Chăm Bàni với những đặc điểm chủ yếu sau đây:
1. Truyền thống gắn bó và đồng hành cùng dân tộc
Việt Nam chủ yếu chỉ có người Chăm theo Hồi giáo. Vì vậy, Hồi giáo gắn bó với dân tộc Chăm, mà cư dân Chăm là một dân tộc có nền văn hoá đa dạng và phong phú; có truyền thống yêu nước, gắn kết với dân tộc và cách mạng, đã có nhiều đóng góp trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Là một dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, đồng bào Chăm Hồi giáo luôn phát huy bản sắc văn hoá và truyền thống đoàn kết, yêu nước gắn bó với cộng đồng các dân tộc trong các cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược, giành độc lập dân tộc.
Hơn nữa, từ khi có Đảng đồng bào Chăm Hồi giáo luôn đi theo và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; làm tốt nghĩa vụ công dân, ủng hộ sự nghiệp đổi mới do Đảng đề xướng và lãnh đạo, góp phần viết tiếp trang sử vẻ vang của dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
2. Tính chính thống của Hồi giáo có thay đổi
Bởi tác động của bản sắc văn hoá dân tộc vùng Đông Nam Á, trong đó nền tín ngưỡng, tôn giáo bản địa cổ Bàlamôn chiếm địa vị chủ yếu. Sự tác động này được gọi là quá trình “Chăm hoá”.
Như khi nghiên cứu, để chinh phục thế giới Ảrập và bành trướng thế lực, Hồi giáo chủ trương mở rộng “đất thánh” bằng các cuộc thánh chiến, với khẩu hiệu “Thanh gươm, vó ngựa, kinh Qur'an”. Nhưng khi Hồi giáo truyền bá xuống phía Đông bị cản trở bởi đại dương nên không thể tiến hành thánh chiến mà các giáo sĩ truyền đạo thông qua thương thuyền theo con đường mậu dịch để truyền bá và phát triển Hồi giáo ở vùng này. Chúng ta có thể khẳng định khi Hồi giáo truyền bá xuống phía Đông đã chịu sự chi phối mạnh mẽ bởi bản sắc văn hoá truyền thống lâu đời của vùng Á Đông và tín ngưỡng cổ Bàlamôn với chế độ mẫu hệ, làm cho tính cách Hồi giáo phải biến đổi phù hợp với nền văn hóa bản địa.
3. Tính quốc tế của Hồi giáo
Hồi giáo là tôn giáo có số lượng tín đồ đông nhất thế giới, đang trong xu thế của quá trình “Hồi giáo hoá thế giới”. Hơn nữa, thế giới đang đứng trước nguy cơ xung đột sắc tộc và tôn giáo trong mối quan hệ “toàn cầu hoá”. Đảng ta chủ trương mở rộng quan hệ quốc tế theo phương châm “Việt Nam là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Các tôn giáo ở Việt Nam, nhất là Chăm Hồi giáo đã, đang và sẽ tiếp tục chịu sự tác động nhiều mặt của Hồi giáo thế giới. Theo đó, một số sinh hoạt tôn giáo truyền thống của Hồi giáo vốn mang tính quốc tế nay được mở rộng. Nó vừa là nhu cầu, vừa là đặc điểm phổ biến đang phát triển.
Cùng với xu thế hội nhập quốc tế của Nhà nước, Hồi giáo Việt Nam cũng mở rộng và phát triển giao lưu với các cá nhân, tổ chức Hồi giáo ngoài nước. Mối quan hệ đó không chỉ vì mục đích tôn giáo mà còn có những mục đích chính trị - xã hội. Nhằm thúc đẩy hoạt động Hồi giáo nước ta hội nhập vào cộng đồng Hồi giáo thế giới.
II. Thực trạng về tình hình Hồi giáo
1. Số lượng và phân bố tín đồ
Hiện nay, theo số liệu thống kê của các địa phương có Hồi giáo, số lượng tín đồ Hồi giáo khoảng hơn 72.000 người (bao gồm cả Chăm Bàni và Chăm Islam), cư trú trên địa bàn 13/63 tỉnh, thành phố cả nước. Hồi giáo ở nước ta hình thành hai dòng:
- Một là: Cộng đồng Hồi giáo tuân thủ tương đối giáo lý Hồi giáo nguyên thuỷ gọi là Chăm Islam, sống tập trung ở 12 tỉnh, thành phố: An Giang, TP. Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Đồng Nai, Ninh Thuận, Kiên Giang, Trà Vinh, Tiền Giang, Long An, Bình Dương, Bình Phước và Thủ đô Hà Nội.
- Hai là: Cộng đồng theo Hồi giáo đã bị “Chăm hoá” gọi là Chăm Bàni, sống tập trung ở ba tỉnh: Ninh Thuận, Bình Thuận và Bình Phước.
Qua khảo sát về tình hình Hồi giáo ở Việt Nam, có thể rút ra một số vấn đề sau:
- Hồi giáo ở Việt Nam không nhiều và chủ yếu là trong cư dân Chăm. Tỷ lệ tín đồ tăng chậm trong thời gian qua, ngoài một bộ phận bỏ tín ngưỡng Bàni theo Islam ở Phước Nam (Ninh Thuận) vào những năm 60 của thế kỷ XX, số tín đồ theo Hồi giáo qua con đường “truyền đạo” không đáng kể và chủ yếu là tăng tự nhiên.
- Dân cư hình thành theo các nhóm cộng đồng Jam'ah có tính quần cư là chủ yếu, một bộ phận không lớn cộng cư với người Kinh và các dân tộc anh em. Tuy nhiên, tính cộng đồng - nét truyền thống tổ chức - xã hội của cư dân Chăm vẫn là lối sống đặc trưng của cư dân Chăm Hồi giáo.
- Hồi giáo nước ta có sự khác biệt giữa các vùng, trong đó Chăm Islam có mối quan hệ thường xuyên với Hồi giáo thế giới, đặc biệt là khu vực Đông Nam Á. Mối quan hệ đó, ngoài yếu tố tôn giáo còn có quan hệ thân tộc.
2. Nhu cầu về niềm tin tôn giáo
Đồng bào Chăm Islam và Chăm Bàni có niềm tin tôn giáo sâu sắc vào Thượng đế Allah và Thiên kinh Qur'an, là nhu cầu đời sống tinh thần không thể thiếu, nó gắn chặt với yếu tố tôn giáo. Nó hoàn toàn khác với nhu cầu về vật chất trong đời sống xã hội. Nhưng niềm tin đó lại có sự khác nhau trong quá trình thực thi giáo luật Hồi giáo giữa hai dòng: Chăm Islam thực thi giáo luật Hồi giáo hầu như trọn vẹn mang tính chính thống, yếu tố tôn giáo sâu sắc hơn; Chăm Bàni thực hiện giáo luật mang tính tượng trưng, không thực hiện hết 5 điều sống đạo, chỉ thực hiện trong tháng Ramadan mà họ quen gọi là tháng “vào chùa’’ của các vị chức sắc. Mặt khác, Chăm Bàni chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi tôn giáo Bàlamôn và tín ngưỡng bản địa với chế độ mẫu hệ và tín ngưỡng đa thần, có yếu tố dân tộc mang tính vượt trội.
3. Về thực trạng kinh tế - xã hội
Đánh giá một cách tổng quát, tình hình kinh tế - xã hội của đồng bào Chăm Hồi giáo nước ta hiện nay được cải thiện. Đời sống kinh tế của đồng bào Hồi giáo được nâng cao nhờ cơ sở hạ tầng phát triển, đầu tư và chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng, phù hợp với đặc điểm của từng vùng. Các biện pháp kỹ thuật được áp dụng vào sản xuất, nhất là khi Đảng ta thực hiện sự nghiệp đổi mới đất nước. Cho nên, mức sống của đồng bào Chăm cũng được nâng lên theo tỷ lệ chung ở từng vùng, từng địa phương, số hộ đạt mức sống khá và giàu tăng lên. Tuy nhiên, vẫn còn một số cộng đồng Hồi giáo nhỏ lẻ thiếu đất sản xuất. Do đó, tình hình tái nghèo và thất học trong các cộng đồng này đang là một vấn đề cần được quan tâm.
Những năm gần đây, đời sống văn hoá - xã hội trong các cộng đồng Hồi giáo cũng phát triển và tăng lên rõ rệt. Theo đó, trình độ học vấn trong đồng bào Hồi giáo cũng từng bước nâng lên, nhất là khi Nhà nước áp dụng chính sách miễn học phí cho học sinh là con em đồng bào Chăm. Một bộ phận người Chăm Hồi giáo có trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học.
4. Về cơ sở thờ tự
Theo kết quả khảo sát, số lượng cơ sở thờ tự của Hồi giáo đến năm 2009 là 79 cơ sở. Trong đó, Chăm Islam có 40 thánh đường, 22 tiểu thánh đường; Chăm Bàni có 17 thánh đường (chùa). So với trước ngày giải phóng miền Nam 30/4/1975, số lượng cơ sở thờ tự của Hồi giáo tăng, nhiều cơ sở được trùng tu, sửa chữa khang trang.
5. Về tổ chức Hồi giáo
Đối với Chăm Islam, trước năm 1975, ở miền Nam, Hồi giáo có hai tổ chức chính thức là: "Hiệp hội Chàm Hồi giáo Việt Nam" và "Hội đồng giáo cả Islam Việt Nam". Hiệp hội Chàm Hồi giáo Việt Nam hoạt động dưới sự điều hành của Ban Quản trị Hiệp hội Trung Ương và Đại hội đồng cơ sở. Nhằm mục đích: không hoạt động chính trị mà duy trì những tinh hoa đạo đức trong sinh hoạt tôn giáo; thực thi các tập tục truyền thống và đời sống đạo đã được kinh Qur'an giáo huấn. Tuy nhiên, cả hai tổ chức này nhất là Hiệp hội Chàm Hồi giáo Việt Nam bị chính quyền Mỹ, Ngụy lợi dụng, sử dụng làm công cụ chống cách mạng. Do đó, nó cùng tồn tại đến ngày 30/4/1975 thì tự giải tán theo sự sụp đổ của chính quyền ngụy Sài Gòn.
Mặt khác, trong cộng đồng Chăm Bàni ở hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận, trước năm 1975 đều có tổ chức "Hội đồng giáo cả" tuy chưa được pháp luật thừa nhận nhưng trên thực tế vẫn hoạt động và tồn tại cho đến nay.
Từ sau giải phóng miền Nam đến trước khi có chủ trương của Đảng về công tác đối với Hồi giáo, ở Việt Nam mới có một tổ chức là Ban Đại diện cộng đồng Hồi giáo TP. Hồ Chí Minh được thành lập tháng 7/1992. Từ năm 2003 (thực hiện chủ trương của Đảng về công tác Hồi giáo), Ban Tôn giáo Chính phủ phối hợp với Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố có Hồi giáo đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tôn giáo về mặt tổ chức cho bà con tín đồ. Đến nay, đối với Chăm Islam, có thêm hai tổ chức Hồi giáo cấp tỉnh ở tỉnh An Giang và Tây Ninh; đối với Chăm Bàni, có Hội đồng sư cả Hồi giáo Bàni tỉnh Ninh Thuận. Trong thời gian qua, việc thành lập tổ chức của các cộng đồng Hồi giáo giúp cho công tác quản lý nhà nước ở địa phương đối với Hồi giáo tốt hơn, kịp thời đáp ứng những nguyện vọng chính đáng của bà con tín đồ.
Thông qua các tổ chức này, cấp uỷ, chính quyền, UBMTTQVN và đoàn thể các cấp có nhiều thuận lợi trong việc tuyên truyền phổ biến chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước cho bà con tín đồ Hồi giáo. Nhằm giúp họ hiểu rõ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của tín đồ Hồi giáo, củng cố niềm tin, ý thức tự nguyện ủng hộ và tham gia thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội, cũng như chủ trương, chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta./.
Câu 3:Những thành tựu cơ bản của văn minh Ấn Độ thời cổ trung đại:
a) Chữ viết: Thời đại Harappa-Môhenjô Đarô, ở miền Bắc Ấn đã xuất hiện một loại chữ cổ mà ngày nay người ta còn lưu giữ được khoảng 3000 con dấu có khắc những kí hiệu đồ hoạ. Thế kỉ VII TCN, ở đây đã xuất hiện chữ Brami, ngày nay còn khoảng 30 bảng đá có khắc loại chữ này. Trên cơ sở chữ Brami, thế kỉ V TCN ở Ấn Độ lại xuất hiện chữ Sanscrit, đây là cơ sở của nhiều loại chữ viết ở Ấn Độ và Đông Nam Á sau này.
b) Văn học: Ấn Độ là nước có nèn văn học rất phát triển, gồm có 2 bộ phận chính là Vê đa và sử thi, tuy nhiên nổi bật hơn cả là sử thi với hai tác phẩm văn học nổi bật thời cổ đại là Mahabharata và Ramayana. Mahabharata là bản trường ca gồm 220 000 câu thơ. Bản trường ca này nói về một cuộc chiến tranh giữa các con cháu Bharata. Bản trường ca này có thể coi là một bộ “bách khoa toàn thư” phản ánh mọi mặt về đời sống xã hội Ấn Độ thời đó. Ramayana là một bộ sử thi dài 48 000 câu thơ, mô tả một cuộc tình giữa chàng hoàng tử Rama và công chúa Sita. Thiên tình sử này ảnh hưởng tới văn học dân gian một số nước Đông Nam Á. Riêmkê ở Campuchia, Riêmkhiêm ở Thái Lan chắc chắn có ảnh hưởng từ Ramayana.
Thời cổ đại ở Ấn Độ còn có tâp ngụ ngôn Năm phương pháp chứa đựng rất nhiều tư tưởng được gặp lại trong ngụ ngôn của một số dân tộc Á-Âu.
c) Nghệ thuật: Ấn Độ là nơi có nền nghệ thuật tạo hình phát triển rực rỡ, ảnh hưởng tới nhiều nước Đông Nam Á. Nghệ thuật Ấn Độ cổ đại hầu hết đều phục vụ một tôn giáo nhất định, do yêu cầu của tôn giáo đó mà thể hiện. Có thể chia ra ba dòng nghệ thuật: Hinđu giáo, Phật giáo, Hồi giáo. Có rất nhiều chùa tháp Phật giáo, nhưng đáng kể đầu tiên là dãy chùa hang Ajanta ở miền trung Ấn Độ. Đây là dãy chùa được đục vào vách núi, có tới 29 gian chùa, các gian chùa thường hình vuông và nhiều gian mỗi cạnh tới 20m. Trên vách hang có những bức tượng Phật và nhiều bích hoạ rất đẹp.
Các công trình kiến trúc Hinđu giáo được xây dựng nhiều nơi trên đất Ấn Độ và được xây dựng nhiều vào khoảng thế kỉ VII - XI. Tiêu biểu cho các công trình Hinđu giáo là cụm đền tháp Khajuraho ở Trung Ấn, gồm tất cả 85 đền xen giữa những hồ nước và những cánh đồng.
Những công trình kiến trúc Hồi giáo nổi bật ở Ấn Độ là tháp Mina, được xây dựng vào khoảng thế kỉ XIII và lăng Taj Mahan được xây dựng vào khoảng thế kỉ XVII.
d) Khoa học tự nhiên:
- Về Thiên văn: người Ấn Độ cổ đại đã làm ra lịch, họ chia một năm ra làm 12 tháng, mỗi tháng có 30 ngày. ( Như vậy năm bình thường có 360 ngày ). Cứ sau 5 năm thì họ lại thêm vào một tháng nhuận.
- Về Toán học: Người Ấn Độ thời cổ đại chính là chủ nhân của hệ thống chữ số mà ngày nay ta quen gọi là số Arập. Đóng góp lớn nhất của họ là đặt ra số không, nhờ vậy mọi biến đổi toán học trở thành đơn giản, ngắn gọn hẳn lên. (Người Tây Âu vì vậy mà từ bỏ số La Mã mà sử dụng số Arập trong toán học.) Họ đã tính được căn bậc 2 và căn bậc 3; đã có hiểu biết về cấp số, đã biết về quan hệ giữa 3 cạnh trong một tam giác. Pi = 3,1416.
- Về vật lý: Người Ấn Độ cổ đại cũng đã có thuyết nguyên tử. Thế kỉ V TCN, có một nhà thông thái ở Ấn Độ đã viết “...trái đất, do trọng lực của bản thân đã hút tất cả các vật về phía nó”.
- Y học: cũng khá phát triển. Người Ấn Độ cổ đại đã mô tả các dây gân, cách chắp ghép xương sọ, cắt màng mắt, theo dõi quá trình phát triển của thai nhi. Họ để lại hai quyển sách là “ Y học toát yếu” và “ Luận khảo về trị liệu”.
Câu 4:Sự hình thành và phát triển của đạo Phật thời cổ trung đại, phân tích ảnh hưởng tích cực của Đạo phật đối với xh Việt Nam hiện nay.
a) Sự hình thành và phát triển của đạo Phật
- Sự hình thành: Đạo Phật ra đời vào khoảng giữa thiên niên kỉ I TCN do thái tử Xitđacta Gôtama, hiệu là Sakya Muni (Thích Ca Mâu Ni) khởi xướng. Các tín đồ Phật giáo lấy năm 544 TCN là năm thứ nhất theo Lịch Phật, họ cho là đây là năm Đức Phật nhập niết bàn. (Vì vậy, những người châu Á theo đạo Phật trước kia vẫn để ý đến ngày qua đời hơn ngày ra đời, khác hẳn những người theo đạo Thiên chúa).
- Sự phát triển: Sauk hi ra đời đạo Phật nhanh chóng được truyền bá ở miến Bắc Ấn Độ. Để soạn thảo giáo lý, quy chế và chấn chỉnh về tổ chức từ thé kỷ thứ V – III TCN đạo Phật đã riệu tập 3 cuộc Đại hội từ đó đạo Phật được truyền sang Xrilanca, rồi đến các nước khác như Myanma, Thái Lan, Indolexia…
Khoảng năm 100 sau CN đạo Phật triệu tập đại hội lần 4 ở Cusan, Đại hội đã thông qua giáo lý của đạo Phật cải cách, xuất hiện phái phật giáo mới gọi là phái Đại thừa để phân biệt với phật giáo cũ là phái Tiểu thừa
Sau Đại hội lần 4 ở Cusan các nhà sư càng được khuyến khích ra nước ngoài truyền Đạo, do đó đạo Phật càng được truyền bá mạnh mẽ sang các nước Trung Á, Trung Quốc. Những thế kỷ tiếp sau đó Phật giáo suy dần ở Ấn Độ song lại phát triển mạnh ở các nước và nó đã trở thành quốc giáo của một số nước: Xrilanca, Thái Lan, Campuchia, Lào…
b) Ảnh hưởng tích cực của Phật giáo đến xã hội Việt Nam hiện nay.
Với vai trò, chức năng và những giá trị nhân văn sâu sắc của mình, Phật giáo trở thành chỗ dựa trong đời sống văn hóa, tinh thần của một bộ phận quần chúng. Các chuẩn mực của đạo đức Phật giáo có tác dụng điều chỉnh hành vi, nhân cách con người, ảnh hưởng tích cực đến quần chúng.
Với tư tưởng từ bi, cứu khổ cùng với các giá trị đạo đức của Phật giáo đã có ảnh hưởng không ít tới môi trường sống của người dân, bởi vì đạo Phật là tiếng nói của một con người gửi tới những con người khác, để cùng giúp nhau vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Vì thế, đạo Phật mang tính xã hội và đạo đức rất cao. Phật giáo không chỉ dừng lại ở công việc chia sẻ những khó khăn của xã hội như hòa bình, thịnh vượng, công bằng, mà còn hướng mọi người lấy điều thiện làm chuẩn mực sống, làm phương tiện và mục đích để đạt tới hạnh phúc cho con người. Như hiện nay trong làm ăn kinh tế, một số người vì sự lôi cuốn của đồng tiền muốn làm ít hường nhiều, muốn làm giàu nhanh chóng, đã bất chấp thủ đoạn, coi thường pháp luật chà đạp nghiêm trọng tới đạo đức, lối sống truyền thống. Với quan niệm tiêu dùng của cải vật chất hợp lý, không quá coi trọng tài sản đến mức trở thành nô lệ của nó, không ăn của người, cuộc sống an vui giải thoát chỉ đạt được khi con người đạt được chân thiện mỹ, hạnh phúc của người này có được không phải bằng cách giẫm đạp lên hạnh phúc của người khác, phải đem an vui đến cho mọi người, Phật giáo đã phần nào tác động tốt tới nhân cách, lối sống các tín đồ.
Cũng có thể thấy rằng những giáo lý của phật giáo khá đồng thuận với tư tưởng xã hội chủ nghĩa, nên việc phật giáo được Đảng và nhà nước quan tâm là điều tất yếu.
Câu 5:Điều kiện hình thành những thành tựu cơ bản của văn minh Trung Quốc thời cổ trung đại?
Lãnh thổ Trung Quốc ngày nay rộng mênh mông nhưng Trung Quốc thời cổ đại nhỏ hơn bây giờ nhiều. Địa hình Trung Quốc đa dạng, phía Tây có nhiều núi và cao nguyên, khí hậu khô hanh, phía đông có các bình nguyên châu thổ phì nhiêu, thuận lợi cho việc làm nông nghiệp.
Trong hàng ngàn con sông lớn nhỏ ở Trung Quốc, có hai con sông quan trọng nhất là Hoàng Hà và Trường Giang (Dương Tử). Hai con sông này đều chảy theo hướng tây-đông và hàng năm đem phù sa về bồi đắp cho những cánh đồng ở phía đông Trung Quốc.
Trung Quốc gồm nhiều dân tộc nhưng đông nhất là người Hoa-Hạ. Người Hoa ngày nay tự cho tổ tiên họ gổc sinh sống ở ven núi Hoa thuộc tỉnh Thiểm Tây và sông Hạ thuộc tỉnh Hồ Bắc ngày nay.(Dân núi Hoa sông Hạ). Trong gần 100 dân tộc hiện sinh sống trên đất Trung Quốc ngày nay, có 5 dân tộc đông người nhất là Hán, Mãn, Mông, Hồi, Tạng.
Những điều kiện về địa hình và dân cư đó đã hình thành cho thế giới một nền văn minh mới, đó là văn minh Trung Quốc với rất nhiều thành tựu.
Câu 6:Những thành tựu cơ bản của Văn minh Trung Quốc thời cỏ trung đại. từ ảnh hưởng đó đến sự phát triển của văn minh thế giới.
1) Những thành tựu cơ bản của văn minh Trung Quốc:
a) Chữ viết: Từ đời nhà Thương, người Trung Hoa đã có chữ Giáp cốt được viết trên mai rùa, xương thú, được gọi là Giáp cốt văn. Qua quá trình biến đổi, từ Giáp cốt văn hình thành nên Thạch cổ văn, Kim văn. Tới thời Tần, sau khi thống nhất Trung Quốc, chữ viết cũng được thống nhất trong khuôn hình vuông được gọi là chữ Tiểu triện.
b) Văn học: Trung Quốc có nền văn học rất phong phú đó là nhờ vào chế độ thi cử và việc văn chương trở thành thước đo của tri thức. Các thể loại tiêu biểu: Thơ,Từ, Phú, Kịch, tiểu thuyết…trong đó tiêu biểu nhất là Kinh thi, Thơ Đường và Tiểu thuyết Minh - Thanh
Kinh thi là tập thơ cổ nhất ở Trung Quốc do nhiều tác giả sáng tác thời Xuân-Thu, được Khổng tử sưu tập và chỉnh lí. Kinh thi gồm có 3 phần: Phong, Nhã, Tụng.
Thơ Đường là thời kì đỉnh cao của nền thơ ca Trung Quốc. Trong hàng ngàn tác giả nổi bật lên ba nhà thơ lớn đó là Lí Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị.
Tới thời Minh-Thanh, tiểu thuyết lại rất phát triển với các tác phẩm tiêu biểu như: Tam quốc chí diễn nghĩa của La Quán Trung, Thuỷ hử của Thi Nại Am, Tây du kí của Ngô Thừa Ân, Nho lâm ngoại sử của Ngô Kính Tử, Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần...trong đó Hồng lâu mộng được đánh giá là tiểu thuyết có giá trị nhất.
c) Sử học: Người Trung Hoa thời cổ rất có ý thức về biên soạn sử. Nhiều nước thời Xuân-Thu đã đặt các quan chép sử. Trên cơ sở quyển sử nước Lỗ, Khổng Tử đã biên soạn ra sách Xuân Thu.
Tới thời Hán, Tư Mã Thiên là một nhà viết sử lớn đã để lại tác Phẩm Sử kí, chép lại lịch sử Trung Quốc gần 3000 năm, từ thời Hoàng Đế đến thời Hán Vũ Đế.
Tới thời Đông Hán, có các tác phẩm Hán thư của Ban Cố, Tam quốc chí của Trần Thọ, Hậu Hán thư của Phạm Diệp.
Tới thời Minh-Thanh, các bộ sử như Minh sử, Tứ khố toàn thư là những di sản văn hoá đồ sộ của Trung Quốc.
d) Khoa học tự nhiên
Toán học: Người Trung Hoa đã sử dụng hệ đếm thập phân từ rất sớm. Thời Tây Hán đã xuất hiện cuốn Chu bễ toán kinh, trong sách đã có nói đến quan niệm về phân số, về quan hệ giữa 3 cạnh trong một tam giác vuông.
Thời Đông Hán, đã có cuốn Cửu chương toán thuật, trong sách này đã nói đến khai căn bậc 2, căn bậc 3, phương trình bậc1, đã có cả khái niệm số âm, số dương.
Thời Nam-Bắc triều có một nhà toán học nổi tiếng là Tổ Xung Chi, ông đã tìm ra số Pi xấp xỉ 3,14159265, đây là một con số cực kì chính xác so với thế giới hồi đó.
- Thiên văn học: Từ đời nhà Thương, người Trung Hoa đã vẽ được bản đồ sao có tới 800 vì sao. Họ đã xác định được chu kì chuyển động gần đúng của 120 vì sao. Từ đó họ đặt ra lịch Can-Chi. Thế kỉ IV TCN, Can Đức đã ghi chép về hiện tượng vết đen trên Mặt trời. Thế kỉ II, Trương Hành đã chế ra dụng cụ để dự báo động đất.
Năm 1230, Quách Thủ Kính (đời Nguyên) đã soạn ra cuốn Thụ thời lịch, xác định một năm có 365,2425 ngày. Đây là một con số rất chính xác so với các nhà thiên văn Châu Âu thế kỉ XIII.
- Y dược học: Thời Chiến Quốc đã có sách Hoàng đế nội kinh được coi là bộ sách kinh điển của y học cổ truyền Trung Hoa. Thời Minh có cuốn Bản thảo cương mục của Lí Thời Trân. Cuốn sách này được dịch ra chữ Latinh và được Darwin coi đây là bộ bách khoa về sinh vật của người Trung Quốc thời đó. Đặc biệt là khoa châm cứu là một thành tựu độc đáo của y học Trung Quốc.
e) Hội họa, điêu khắc, kiến trúc
- Hội hoạ: Hội hoạ Trung Quốc có lịch sử 5000 - 6000 năm với các loại hình: bạch hoạ, bản hoạ, bích hoạ. Đặc biệt là nghệ thuật vẽ tranh thuỷ mạc, có ảnh hưởng nhiều tới các nước ở Châu Á. Cuốn Lục pháp luận của Tạ Hách đã tổng kết những kinh nghiệm hội hoạ từ đời Hán đến đời Tuỳ.
- Điêu khắc: Ở Trung Quốc cũng phân thành các ngành riêng như: Ngọc điêu, thạch điêu, mộc điêu. Những tác phẩm nổi tiếng như cặp tượng Tần ngẫu đời Tần, tượng Lạc sơn đại Phật đời Tây Hán ( pho tượng cao nhất thế giới ), tượng Phật nghìn mắt nghìn tay.
- Kiến trúc: Cũng có những công trình rất nổi tiếng như Vạn lí trường thành ( tới 6700 km ), Thành Tràng An, Cố cung, Tử cấm thành ở Bắc Kinh.
2. Ảnh hưởng đó tới sự phát triển văn minh thế giới:
………….
Câu 7:Bốn phát minh lớn về KHKT của Trung Quốc thời cổ trung đại và ý nghĩa của nó:
Thời trung đại Trung Quốc có 4 phát minh lớn rất quan trọng đó là: Giấy, kĩ thuật in, thuốc súng và kim chỉ nam.
a) Kĩ thuật làm giấy:
- Thời Tây Hán, người Trung Quốc vẫn dung thẻ tre, lụa để ghi chép. Đến khoảng thế kỷ II, mặc dù đã biết dung phương pháp xơ gai để làm giấy, tuy nhiên giấy thời kỳ này còn xấu, mặt không phẳng , khó viết nên chỉ dung để gói.
- Đến thời Đông Hán, năm 105 một người tên Thái Luân đã dung vỏ cây, lưới cũ, rẻ rách…làm nguyên liệu, đồng thời đã cải tiến kỹ thuật, nên đã làm được loại giấy có chất lượng tốt. Từ đó giấy được dung để viết 1 cách phổ biến thay thế cho các vật liệu trước đó.
- Từ thế kỷ III nghề làm giấy được truyền sang Việt Nam và sau đó được tryền đi hầu khắp các nước trên thế giới.
b) Kĩ thuật in:
- Từ giữa thế kỷ VII kĩ thuật in giấy đã xuất hiện. Khi mới ra đời là in bằng ván sau đó có một người dân tên Tất Thăng đã phát minh ra cách in chữ rời bằng đất sét nung đã hạn chế được nhược điểm của cách in bằng ván. Tuy nhiên cách in này vẫn còn hạn chế nhất định: chữ hay mòn, khó tô mực. Sau đó đã có một số người tiến hành cải tiến nhưng ko được, đến thời Nguyên, vương Trinh mới cải tiến thành công việc dùng chữ rời bằng gỗ.
- Từ khi ra đời kĩ thuật in cũng đã được truyền bá rộng rãi ra các nước khác trê thế giới. Cho đến năm 1448, Gutenbe người Đức đã dùng chữ rời bằng kim loại, nó đã làm cơ sở cho việc in chữ rời bằng kim loại ngày nay.
c) Thuốc súng:
Thuốc súng là phát minh ngẫu nhiên của những người luyện đan, cho đến thế kỷ X thuốc súng bắt đầu được dùng làm vũ khí. Sau đó qua quá trình sử dụng nó đã được cải tiến rất nhiều với nhiều tên gọi khác nhau. Và trong quá trình tấn công Trung Quốc người Mông cổ đã học được cách làm thuốc súng và từ đó lan truyền sang Tây Á rồi đến châu Âu.
d) Kim chỉ nam.
Từ thế kỷ III TCN người Trung Quốc đã phát minh ra “Tư nam” đó là một dụng cụ chỉ hướng. Sau đó các thầy phong thủy đã phát minh ra kim nam châm nhân tạo, đầu tiên la bàn được dùng để xem hướng đất rồi mới được sử dụng trong việc đi biển. Nửa sau thế kỷ XII la bàn được truyền sang Arập ròi sang châu Âu
2. Ý nghĩa:
Đối với trung quốc bốn phát minh trên ra đời không chỉ trực tiếp giúp cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của con người Trung Quốc, mà đó còn là những đóng góp không nhỏ của một nền văn minh cho toàn nhân loại.
Đối với thế giới sự ra đời của kĩ thuật làm giấy, kĩ thuật in, thuốc súng và kim chỉ nam đã nâng cao được vị thế của loài người, đưa nhân loại tiến lên một bước trong quá trình chinh phục tự nhiên và tranh đấu với tự nhiên với chính con người để sinh tồn và phát triển.
Câu 8:Quá trình hình thành tư tưởng nho giáo và phân tích những đặc điểm chính của tư tưởng này. Nêu ảnh hưởng của nho giáo trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay.
1. Quá trình hình thành tư tưởng nho giáo và phân tích những đặc điểm của tư tưởng này.
a) Quá trình hình thành
Nho gia là trường phái tư tưởng quan trọng nhất ở Trung Quốc. Người đặt cơ sở đầu tiên của Nho gia là Khổng tử. Nho gia đề cao chữ nhân, chủ trương lễ trị, phản đối pháp trị. Nho gia đề cao Tam cương, Ngũ thường, cùng với tư tưởng Chính danh định phận và đề cao tư tưởng Thiên mệnh. Giá trị quan trọng nhất trong tư tưởng của Khổng Tử là về giáo dục. Ông chủ trương dạy học cho tất cả mọi người.
Tiếp sau Khổng Tử là Mạnh Tử người kế thừa và phát triển học thuyết Nho gia them một bước
Tới thời Hán Vũ Đế (140-87 TCN), chấp nhận đề nghị của Đổng Trọng Thư, Hán Vũ Đế đã ra lệnh “bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật”, Nho gia đã được đề cao một cách tuyệt đối và nâng lên thành Nho giáo.
b) Đặc điểm của Nho giáo
…………………………………………………
ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO TỚI ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ VIỆT NAM
I. QUÁ TRÌNH DU NHẬP CỦA NHO HỌC VÀO VIỆT NAM. Tiếp thu một học thuyết từ bên ngoài để làm lý luận hướng dẫn tư duy và hành động cho dân tộc mình là một chân lý phổ biến, là một sự thực khách quan của các thời đại, của các dân tộc. Thực tế này có căn cứ vững chắc trong sự phát triển. Đó là sự phát triển không đồng đều của các dân tộc qua không gian và thời gian. ở cùng một thời đại, ta thường thâý ở một vùng này, có một dân tộc hoặc một vài dân tộc khác cao hơn, nhanh hơn, mạnh hơn các dân tộc khác ở xung quanh. Sự thực này ta có thể tìm thấy ở Châu á, Châu Phi, Châu Âu, Châu Mỹ, ở thời xưa cũng như thời nay. Những dân tộcc ở bất cứ đâu, bất cứ thời nào muốn sống, muốn nâng cao mức sống của mình không thể không học tập những dân tộc tiên tiến. Ta không hề thấy một dân tộc nào cứ chịu lạc hậu, chịu áp bức bóc lột nghèo nàn để chờ sự sáng tạo của riêng mình không thèm học tập những dân tộc tiến bộ hơn mình. Điều này đúng với khoa học tự nhiên và kỹ thuật cũng như vưói khoa học xã hội. Vì thế chúng ta tiếp thu tư tưởng văn hoá Trung Quốc là một điều tất yếu. Trong ý thức hệ phong kiến mà người Hán đưa vào nước ta từ thời kỳ Bắc thuộc, Nho giáo lâu bền nhất và có ảnh hưởng sâu sắc nhất. Phật giáo dần dần rút lui vào chùa chiền, lão giáo cũng dần biến thành một thứ mê tín dị đoan mà các thầy phù thuỷ dùng làm kế sinh nhai. Tư tưởng trị vì trong lĩnh vực chính trị và học thuật suốt 2000 năm là tư tưởng Nho giáo. Có nhiều nguyên nhân, trong đó có một nguyên nhân vô cùng quan trọng là sức sống của dân tộc. Trong hoàn cảnh thời trước, nhất là từ khi giành được nền tự chủ dân tộc Việt Nam muốn tồn tại thì phải chọn lấy một ý thức hệ tích cực, quan tâm đến con người đến cuộc đời, đến xã hội, đến vận mệnh dân tộc. Nho giáo có nhiều hạn chế nhưng trong 3 ý thức hệ phong kiến thì phải nói Nho giáo có nhiều nhân tố tích cực nhất. Do đó cha ông ta đã chọn lấy Nho giáo. Chúng ta đã biết, lúc đầu Nho giáo được đưa vào Việt Nam trong trường hợp không hay ho gì. Nó bị bọn xâm lược đặt lên nhân dân ta với ý định gây cảnh “đồng văn” để dễ “đồng hoá”. Nhưng khi đã làm quen với đạo Nho, chắc rằng nhân dân ta thời đó thấy nó đáp ứng được nhiều vấn đề mà đời sống đặt ra, nên khi giành được độc lập, nhân dân ta nói lấy nó làm nền tảng lý luận để chỉ đạo tư duy và hành động của mình. Thế là từ chỗ bị ép học nó, nhân dân ta đã tự nguyện học nó và ngày một phổ biến nó một cách rộng rãi. Vì thế những người Việt Nam đầu tiên được giữ những chức vụ quan trọng dưới thời Bắc thuộc như Lý Tiến, Lý Cầm - làm thái thú, thứ sứ - đều là những người học thông kinh truyện, xuất thân từ khoa bảng. Ngay khi Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán, giành được độc lập đã xây dựng thể chế quốc gia, đặc các nghi lễ phẩm phục, chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo, tức là tinh thần tôn ti đẳng cấp. Các triều đại đầu tiên khi niên hiệu, tôn hiệu cũng đã thể hiện sự tin tưởng màu sắc là lý thuyết mệnh trời như “ứng thiên”, “thuận thiên” “Phụng thiên”. Phần “Chiếu dời đô” của nhà Lý tuy đoạn còn lại với chúng ta rất ngắn, cũng đượm mùi Nho giáo. Cái gương “nhà Thương, nhà Chu” cũng được nêu lên, cái gương “kính vâng mạng trời” cũng được nhấn mạnh. Các triều đại sau, Trần, Lê, Nguyễn thờ đạo Nho như thế nào thì sử sách đã nêu rõ.
II. ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO TRONG TƯ TƯỞNG VIỆT NAM.
1.Những nhu cầu xã hội giúp cho Nho giáo chiếm được địa vị độc tôn trong thời kỳ phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam.
Nho giáo Việt Nam chiếm được vị trí độc tôn từ thế kỷ 15 và thịnh đạt nhất vào thời Lê Thánh Tông thì đó không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên. Bởi vì nó có liên hệ với những nhu cầu xã hội nước ta lúc đương thời. Những nhu cầu này không chỉ tồn tại ở thế kỷ 15 mà đã sớm xuất hiện từ trước ngay khi Nho giáo còn đang trên đà phát triển. Trong những nhu cầu đó đáng kể trước hết là nhu cầu xây dựng và tổ chức bộ máy nhà nước phong kiến trung ương tập quyền lớn mạnh và nhu cầu củng cố trật tự đã ổn định của xã hội phong kiến. Ngay từ sau chiến thắng Bạch Đằng vĩ đại ở thế kỷ X, việc xây dựng một nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đã tỏ ra cần thiết cho công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Tuy nhiên dưới các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê việc xây dựng một nhà nước chủ thế mới chỉ làm được những bước đầu tiên và chưa thực sự được đẩy mạnh, phải đợi đến thế kỷ XI với sự xác lập của vương triều Lý thì nhà nước phong kiến tập quyền mới được xây dựng một cách quy mô bề thế, với những tổ chức và thể chế trùng điệp của nó. Tiếp đó là triệu đại nhà Trần, rồi đến Lê Lợi khi đã lãnh đạo cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc đi đến thắng lợi đều quan tam tới việc củng cố chế độ phong kiến tập quyền và xây dựng một bộ máy nhà nước trung ương hùng mạnh không kém gì phương Bắc. Nhà nước phong kiến tập quyền Việt Nam ra đời là một sự phủ định chính quyền của bọn phong kiến phương Bắc kéo dài trong 1000 năm Bắc thuộc. Thế cho nên khi xây dựng nhà nước tập quyền của mình, giai cấp phong kiến Việt Nam phải tiếp thu những kinh nghiệm và nguyên tắc tổ chức của nhà nước phong kiến tập quyền phương Bắc cùng với Nho giáo là cơ sở lý luận của Nhà nước. Vả lại trong hoàn cảnh lịch sử bấy giờ chỉ có Nho giáo mới có thể giải đáp được những vấn đề thiết thân đến việc củng cố nhà nước như vấn đề quân quyền, quy định các chương lễ chế và cơ cấu hành chính từ triều đình đến địa phương... Đó là những vấn đề mà bản thân phật giáo cũng như Lão giáo với toàn bộ hệ thống lý thuyết của nó không hề có một sự giải đáp thích đáng nào cả. Cho nên từ thế kỷ XV trở đi Nho giáo ngày càng được giai cấp phong kiến Việt Nam trọng dụng thì đó cũng là điều dễ hiểu. Sự thực chứng tỏ rằng trong thời Lý, Trần, Nho giáo đã bắt đầu được vận dụng một cách rõ rệt vào hoạt động thực tiễn nhằm củng cố chính quyền nhà nước. Sau nữa, củng cố ở thời Lý, Trần và nhất là thời Lê sơ, tôn ti trật tự của chế độ phong kiến tập quyền cùng với sự phân biệt rạch ròi về quyền lợi và đẳng cấp của nó đã dần dần ổn định. Tình hình đó đòi hỏi phải có sự khẳng định về mặt lý luận. Vả lại vào cuối triều Lý và nhất là khi nhà Trần suy vong, mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và đa số nhân dân đã lộ rõ, mầm phản kháng của nhân dân chống lại cái trật tự khắc nghiệt của chế độ phong kiến đã trở thành một sự nổi bật hơn cả những cuộc hỗn chiến giữa các tập đoàn thống trị. Trong hoàn cảnh ấy giai cấp phong kiến Việt Nam muốn tăng cường bộ máy Nhà nước và duy trì trật tự xã hội thì không thể không tìm đến cái đạo trị quốc bình thiên hạ, cái lý thuyết chính danh định phận và lễ trị của Nho giáo. Quá trình phát triển của chế độ trung ương tập quyền Việt Nam gắn liền với sự củng cố quyền sở hữu của Nhà nước và sự bành trướng của sở hữu tư nhân về ruộng đất. Hầu hết ruộng đất dù là ruộng công của làng xã hay ruộng của địa chủ đều được sử dụng trong khuôn khổ sản xuất nhờ lấy gia đình làm đơn vị. Trong mỗi gia đình không những cơ quan hôn nhân, huyết thống mà còn có cả quan hệ sở hữu, phân phối sản phẩm, phân công lao động cho đến những quan hệ tinh thần. Tất cả những quan hệ ấy chứng tỏ vai trò của người gia trưởng và tôn ti trật tự của gia đình có một ý nghĩa rất lớn. Đó chính là cơ sở để Nho giáo dễ thâm nhập vào cuộc sống bởi vì Nho giáo với các khái niệm hiếu, đễ, tiết, hạnh đã góp phần củng cố uy quyền của người gia trưởng và tôn ti trật tự trong gia đình. Cuối cùng phải kể đến nhu cầu phát triển văn hoá và giáo dục nước ta khi chế độ phong kiến tập quyền đã bắt đầu, việc bổ sung quan lại bằng hai con đường “nhiệm tử” và “thủ sĩ” không đủ mà cần phải bổ sung một phương thức đào tạo và tuyển lựa quan lại mới. Phương thức này chỉ có thể phát triển giáo dục văn hoá và thực hiện chế độ thi cử để tuyển lựa nhân tài. Lúc đương thời Phật giáo, Lão giáo không chỉ đảm nhiệm công việc đó. Cho nên Nho giáo vốn có đầy đủ lý thuyết và quy chế về giáo dục và khoa cử tất nhiên phải đảm đương nhiệm vụ lịch sử ấy. Tất nhiên những nhu cầu xã hội nói trên mới chỉ là những cơ sở khách quan cho sự phát triển Nho giáo ở nước ta mà thôi. Sự phát triển đó muốn trở thành hiện thực thì phải thông qua hoạt động của những con người cụ thể, những lực lượng xã hội cụ thể. Trong thực tế từ vua cho đến các đại thần nắm quyền chính trị dưới càng triều Lý, Trần cũng như các thế hệ nho sĩ đời sau đều đã nhận thức được vai trò cần thiết của Nho giáo. Và đã tiến hành những bước truyền bá và sử dụng Nho giáo trong xã hội Việt Nam.
2. Ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của Nho giáo đối với xã hội Việt Nam.
Ảnh hưởng tiêu cực của Nho giáo thể hiện ở những điểm sau: Nho giáo suy đến cùng là bảo thủ về mặt xã hội và duy tâm về mặt triết học. Nó thường được sử dụng để bảo vệ, củng cố các xã hội phong kiến trong lịch sử. Nho giáo góp phần không nhỏ trong việc duy trì quá lâu chếđộ phong kiến ởáĐông nói chung vàở Việt nam nói riêng. Nho giáo cũng là một trong những nguyên nhân kìm hãm sản xuất phát triển ở Việt nam. Dưới ảnh hưởng của Nho giáo, truyền thống tập thểđã biế n thành chủ nghĩa gia trưởng, chuyên quyền, độc đoán, bất bình đẳng. Nho giáo không thúc đẩy sự phát triển của các ngành khoa học tự nhiên bởi phương pháp giáo dục thiên lệch của Nho giáo chỉ quan tâm tới đạo đức, học và dạ y làm người mà không đề cập đến kiến thức khoa học kỹ thuật. Những mặt tiê u cực đó phản ánh tính chất bảo thủ lạc hậu của Nho giáo ở nước ta. Hiện nay, trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt nam thì tư tưởng chính trị - đạo đức của Nho giáo cóảnh hưởng trên các mặt sau: - Trên lĩnh vực xã hội: Nó có tác dụng ổn định kinh tế - chính trịđể phát triển kinh tế. Đó làđiều kiện để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt nam. - Trên lĩnh vực chính trị - đạo đức: Ngày nay áp dụng những tư tưởng của Nho giáo, kế thừa nhữnh mặt tích cực của nóđểđạt mục tiêu ổn định kinh tế, xã hội; đặc biệt chú trọng Nho giáo cổđại (Khổng Tử) chứ không phải Nho giáo sau này (chỉ nhấn mạnh quan hệ một chiều). Đảm bảo nhìn nhận vấn đề
một cách hợp lý, duy trì vấn đề phê phán đúng lúc, đặt vấn đề dân chủ trong việc áp dụng những tinh hoa tích cực. Trong kinh doanh phải biết trọng chữ tín, lấy chữ tín làm đầu, trong đó có một vấn đề rất quan trọng là phải quan tâm đúng mức đến chất lượng sản phẩ m.
KẾTLUẬN Nho giáo tuy là một triết học duy tâ m nhưng đặc biệt coi trọng các giá trịđạo đức. Trong các nội dung đó, chúng vẫn có những ý nghĩa nhân loại nhất định ngoài những hạn chế của đẳng cấp, giai cấp. Việt nam hiện nay đang trong giai đoạn chuyển sang kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa thì những tư tưởng bảo thủ, hủ nho sẽ là những cản trở không nhỏ cho quá trình chuyển đổi ấy. Mặt khác, Việt nam hiện nay đang rất cần giữ thếổn định của xã hội, đó làđiều mà Nho giáo đã theo đuổi hàng ngàn nă m nay - mục tiêu "ổn định". Nho giáo đã suy tư rất nhiều về phương cách thực hiện mục tiêu ấy. Ta cần tham khảo các vấ n đềđó từ nhiều nguồn thông tin, trong đó có Nho giáo, nghiên cứu để vận dụng vào Việt nam cho phù hợp với điều kiện riêng có của nước ta trong điều kiện hiện nay. Vì vậy nghiên cứu Nho giáo trong điều kiện hiện nay còn là một nhiệ m vụ cấp bách và cóý nghĩa thực tiễn vô cùng to lớn.
Câu 9:Điều kiện hình thành nền văn minh khu vực Đông nam Á và những thành tựu cơ bản của nền văn minh đó, Việt Nam đã có những đóng góp gì cho nền văn minh khu vực
1. Điều kiện hình thành nền văn minh khu vực ĐNA
a) Điều kiện tự nhiên của ĐNA thuận lợi cho những bước đi đầu tiên của con người. Vì thế có thể hiểu được tại sao con người đã có mặt ở vùng đất ày từ rất xa xưa. Cùng sinh tụ trên một khu vực địa lý, cư dân ĐNA đã sang tạo ra một nền văn hóa bản địa có cội nguồn chung từ thời tiền sử và sơ sử trước khi tiếp súc với văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ. Theo những vật chứng để lại nhờ sự phát hiện của các nhà khảo cổ có thể thấy Văn hóa ĐNA cũng đã trải qua rất nhiều giai đoạn phát triển khác nhau và rồi dần hình thành lên một nền văn minh mới của nhân loại.
b) Sự hình thành các quốc gia ĐNA còn gắn liền với việc tiếp thu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa và văn hóa Ấn Độ. Những ảnh hưởng này là khá tòa diện và sâu sắc, cả về chữ viết, văn chương, tôn giáo, nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc. Sự tiếp thu đó qua các con đường khác nhau nhưng chủ yếu vẫn là thông qua hoạt động thông thương và việc xâm chiếm. Tuy phải chịu ảnh hưởng khá sâu sắc của hai nền văn hóa lớn song ĐNA vẫn là ĐNA một khu vực được coi là “Châu Âu giáo mùa” cũng có những bản sắc và những thành tựu riêng biệt mang đậm chất ĐNA
2. Những thành tựu cơ bản của nền văn minh ĐNA
Cư dân ĐNA lấy sản suất nông nghiệp lúa nước làm phương thức hoạt động kinh tế chủ yếu. Do đó không chỉ có những nét tương đồng về canh tác và hệ thồng thủy lợi, mà đến các phong tục tập quán ít nhiều cũng chịu ảnh hưởng của của nền nông nghiệp lúa nước.
a) Trước khi các tôn giáo được truyền bá vào ĐNA, cư dân nơi đây đã dùng thuyết “vạn vật hữu linh” để chỉ tất cả những hình thức tín ngưởng. Trong đó sớm nhất là bái vật giáo với những ý niệm về sức mạnh siêu nhiên của tự nhiên.
Quan niệm “vạn vật hữu linh” đã tồn tại trong các tín ngưỡng dân gian và có tác động không nhỏ đến các tôn giáo được truyền bá vào và một phần làm biến dạng nó, biến nó thành cái của mình: như Ăng co vát ở Campuchia, Bánh xe luân hồi bằng đá ở Thái Lan,
b) Khác với văn hóa chữ viết của người Hán và Ấn Độ, văn hóa cư dân nông nghiệp ĐNA tắm mình trong nền văn hóa dân gian. Tín ngưỡng, lễ hội gắn liền với chu ký nông nghiệp, thờ cúng tổ tiên. Cơ cấu của lễ hội bao gồm hai phần đó là Lễ và Hội đan xen hòa quyện vào nhau rất khăng khít, Ngoài ra lễ hội khu vực ĐNA còn mang tính chất thống nhất cao như Tết cổ truyền ở các nước đều có với hình thức gần giống nhau và thời điểm cũng tương đương nhau.
c) Qua các văn bia người ta biết rằng ĐNA cổ xưa đã sử dụng chữ viết đươc du nhập từ Ấn Độ là chính. Tuy nhiên trong quá trình lịch sử lâu dài việc sang tạo ra chữ viết và quá trình cải tiến nó của các cư dân ĐNA không phải là một sự bắt chước đơn giản mà là cả một quá trình công phu và sang tạo, một thành tựu đáng kể về văn hóa của khu vực.
Nền văn học dân gian của các dân tộc ĐNA cũng rất phong phú và đa dạng về thể loại đó là những truyện thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, ngụ ngôn, truyện trạng…mặc dù có chịu ảnh hưởng của văn học Hán và Ấn Độ song văn học ĐNA vẫn mang được bản sắc riêng.
Ngoài ra văn hóa ĐNA còn rất nhiều bản sắc riêng biệt nữa như: Chiếc nhà sàn, Thích múa hát tập thể, hát đối…
3. Việt Nam đã có những đóng góp gì cho nền văn minh khu vực?
…………………
Đông Nam Á là khu vực có nền văn hóa lâu đời, được tạo nên từ rất nhiều mối quan hệ và bản sắc riêng của mỗi dân tộc. Tiếp cận văn hoá Đông Nam Á ngày nay cái cảm đầu tiên với mỗi người sẽ là một nền văn hoá đa dạng trong thống nhất. Trong kho tàng văn hoá đồ sộ ấy dẫu có rất nhiều yếu tố chung làm nên cái gọi là “khung” Đông Nam Á song cũng có không ít những yếu tố đặc sắc, riêng biệt tiêu biểu cho mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Nằm trong tổng thể văn hoá Đông Nam Á, Việt Nam là một trong số ít những quốc gia hội tụ được nhiều giá trị của nền văn hoá - văn minh phương Đông, mang nhiều đặc trưng điển hình của một Đông Nam Á thu nhỏ. Sức sống văn hoá Việt Nam cũng được thể hiện rất đa dạng trên mọi khía cạnh của cuộc sống, xét cả về phương diện vật chất lẫn tinh thần. Ở mỗi khía cạnh lại có những thành tựu văn hoá đặc sắc riêng, được tiếp thu, phát huy từ thế hệ này sang thế hệ khác và lưu truyền đến tận ngày nay. Để hoàn thiện một cái nhìn tổng quát nhất về văn hoá Việt Nam, trong bài báo cáo này chúng tôi sẽ tiến hành nghiên cứu: Một vài nét khác biệt của văn hoá Việt Nam với các nước Đông Nam Á, qua đó sẽ giúp chúng ta có thể nhận diện chính xác hơn những nét riêng có đã làm nên giá trị muôn đời của văn hoá Việt. Khoảnh khắc nhìn lại đây sẽ thay cho thông điệp của người viết về việc bảo tồn, gìn giữ cho muôn đời sau những giá trị văn hoá quí giá của dân tộc. NỘI DUNG 1. Khái quát về văn hoá Đông Nam Á 1.1. Đông Nam Á - một khu vực địa lý, văn hoá, lịch sử thống nhất Về mặt địa lý, Đông Nam Á là khu vực nhiệt đới, gió mùa, khí hậu nóng ẩm, nắng lắm, mưa nhiều. Xét ở góc độ cảnh quan địa lý, Đông Nam Á có đủ rừng núi, đồng bằng, sông, biển. Đó là những hằng số tự nhiên góp phần tạo nên bản sắc thống nhất của văn hoá Đông Nam Á: văn hoá nông nghiệp lúa nước, văn hoá sông biển và văn minh xóm làng. Về mặt lịch sử, Đông Nam Á là một trong những cái nôi của nhân loại. Trong quá trình phát triển, số phận của các dân tộc, các quốc gia Đông Nam Á thăng trầm theo những bước lên xuống gập ghềnh khá giống nhau. Nơi đây có chung các nền văn hoá nổi tiếng: văn hoá Hoà Bình, văn hoá Bắc Sơn, văn hoá Đông Sơn.v.v. Con đường dựng nước và giữ nước của các dân tộc, các quốc gia Đông Nam Á cũng luôn luôn ở vào một hoàn cảnh tương tự: xây dựng nhà nước sơ khai ban đầu theo mô hình tổ chức của Ấn Độ, cùng phải đối mặt với đế quốc Nguyên Mông, các đế quốc phương Tây và Nhật Bản... 1.2. Đông Nam Á - là một khu vực chịu sự ảnh hưởng của các nền văn hoá lớn nhưng vẫn tạo được bản sắc riêng và có những đóng góp quan trọng vào kho tàng văn hoá thế giới Trước hết, Đông Nam Á là quê hương của các loại cây có củ như khoai mài, khoai sọ và các loại ngũ cốc mà quan trọng nhất là cây lúa. Có thể nói trong lĩnh vực này, so với nhiều khu vực khác, Đông Nam Á đóng một vai trò tối quan trọng nếu không nói là chủ chốt. Do đó, hiện nay, Đông Nam Á trở thành khu vực xuất khẩu lúa gạo vào loại hàng đầu thế giới. Không chỉ có cây lúa, nền văn minh thực vật Đông Nam Á còn tạo ra chè, quế, hồ tiêu và nghề trồng dâu nuôi tằm. Và hiệu quả của việc tạo ra các sản phẩm này là những con đường thương mại quốc tế mang tên chúng như: đường chè, đường hồ tiêu, đương tơ lụa. Đông Nam Á là khu vực đầu tiên trên thế giới thuần dưỡng thành công các loài động vật hoang dã như chó, gà, vịt, ngỗng, trâu, voi. Đóng góp cho di sản văn hoá thế giới còn phải kể đến đồ gốm (Bản Chiềng -Thái Lan; Sa Huỳnh - Việt Nam), đồ đồng thau (Đông Sơn - Việt Nam) và hàng loạt các công cụ bằng sắt phục vụ cho việc sản xuất nông nghiệp. Về mặt kiến trúc, Đông Nam Á đã để lại cho thế giới những công trình kì vĩ, độc đáo như khu đền Ăngco, tháp Chàm, Chùa Borobudur, hệ thống đê điều Bắc Bộ,v.v Nghệ thuật điêu khắc Khmer, Chăm, Myanmar,v.v. cũng là những đóng góp đặc sắc của văn hoá Đông Nam Á. Với một bề dày truyền thống văn hoá như vậy thì sự phát triển kinh tế và văn hoá như hiện nay của các nước Đông Nam Á cũng là điều có thể lỷ giải được. 1.3. Văn hoá Đông Nam Á là một nền văn hoá thống nhất trong sự đa dạng Tính thống nhất trong sự đa dạng được biểu hiện ở rất nhiều mặt, nhiều khía cạnh của văn hoá Đông Nam Á. Dưới đây chỉ xin đơn cử một vài ví dụ minh hoạ. Về mặt ngôn ngữ, sự đa dạng của chúng được thể hiện ở chỗ mỗi quốc gia Đông Nam Á hiện có đến hàng chục, thậm chí hàng trăm ngôn ngữ khác nhau. Với gần 200 triệu dân sống ở 13.000 hòn đảo, Indonesia có đến hơn 200 ngôn ngữ dân tộc khác nhau cùng tồn tại. Đất nước 7.107 hòn đảo Philippines cũng có đến khoảng 80 ngôn ngữ dân tộc. Các nước Đông Nam Á khác cũng là những quốc gia đa ngôn ngữ. Tuy nhiên, dù hết sức đa dạng, nhiều vẻ các ngôn ngữ Đông Nam Á đều chỉ thuộc về một trong số 4 ngữ hệ như chúng ta đã biết: Nam Á, Nam Đảo, Thái, Hán Tạng. Và xa hơn nữa, chúng đều bắt nguồn từ một gốc chung là ngôn ngữ Đông Nam Á tiền sử. Quả là một sự thống nhất cao độ từ trong cội nguồn của chúng. Phong tục tập quán là một cái gì hết sức riêng biệt của mỗi dân tộc. Ở Đông Nam Á có đến hàng trăm dân tộc khác nhau, vì thế các phong tục, tập quán cũng rất đa dạng. Sự đa dạng của nó đến mức mỗi làng, mỗi bản đều có những tập tục riêng của mình. Song trong cái hằng hà sa số ấy, người ta vẫn tìm thấy nhiều đặc điểm chung mang tính chất toàn vùng, mang tính phổ quát cho cả khu vực. Đó là cách ăn mặc với một trang phục chung là sarông (váy), khố, rồi vòng đeo tai, vòng đeo cổ.v.v. Đó là tục ăn uống với thức ăn chính là cơm, rau, cá, và hoa quả. Đó là tục ăn hỏi trước khi tổ chức đám cưới linh đình. Đó là tục chôn theo người chết những thứ cần thiết cho cuộc sống và những thứ mà khi còn sống họ thường ưa thích. Đó là tục nhai trầu, cưa, và nhuộm răng đen, xăm mình; rồi đến cả những trò vui chơi giải trí như thả diều, thi chọi gà, bơi thuyền.v.v. Trong cách ăn ở, ngôi nhà chung của các dân tộc Đông Nam Á là nhà sàn “cao cẳng” thích hợp với mọi địa hình và rất phù hợp với khí hậu nóng ẩm của khu vực. Sự đa dạng của phong tục tập quán còn được biểu hiện ở các lễ hội, lễ tết Đông Nam Á. Có thể nói, ở mỗi dân tộc, mùa nào, tháng nào cũng có lễ hội. Nếu làm một phép thống kê, con số các lễ hội, lễ tết Đông Nam Á đều quy tụ về một loại thống nhất: lễ hội nông nghiệp. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, tín ngưỡng bản địa Đông Nam Á dù hết sức đa dạng, nhiều vẻ vẫn có thể thuộc về một trong số ba loại chính: tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, tín ngưỡng phồn thực và tín ngưỡng thờ cúng người đã mất. Một nét chung khác nữa trong tín ngưỡng bản địa Đông Nam Á là thuyết vạn vật hữu linh, là tục thờ Thần, đặc biệt là những vị thần liên quan đến việc trồng cấy như thần Đất, thần Nước, thần Mây, thần Mặt trời.v.v. Tóm lại, ở mọi thành tố của văn hoá Đông Nam Á chúng ta đều có thể tìm thấy một sự thống nhất trong muôn hình muôn vẻ sự tồn tại đa dạng của chúng ở các dân tộc Đông Nam Á. 1.4. Đông Nam Á - khu vực mang tính chất mở, tiếp nhận có chọn lọc những yếu tố tích cực từ bên ngoài Đặc điểm này có cơ sở từ hai lí do chính. Thứ nhất, do tính cách, bản chất của con người Đông Nam Á: luôn luôn cởi mở (sẵn sàng tiếp nhận, không có thành kiến dân tộc) và năng động (sáng tạo). Thứ hai, do vị trí của khu vực Đông Nam Á. Đông Nam Á, như chúng ta đã biết, nằm trên đường giao lưu Trung Hoa - Ấn Độ, nằm gọn trên trục thông thương Đông - Tây qua hai đại dương. Vị trí ấy tạo điều kiện cho Đông Nam Á, ngay từ buổi đầu lịch sử, đã sớm tiếp thu ảnh hưởng của văn hoá Trung, Ấn, Arập và sau này sớm tiếp thu ảnh hưởng của văn hoá phương Tây. Những dấu ấn về sự tiếp thu ấy còn để lại khá đậm nét trong văn hoá Đông Nam Á. Các yếu tố mới tiếp thu từ bên ngoài cùng với các yếu tố bản địa đã làm cho vườn hoa Đông Nam Á càng đa dạng sắc màu trong cuộc sống hiện đại. 1.5. Đông Nam Á - là khu vực còn duy trì các đặc trưng văn hoá mang tính nông thôn Khác với văn hoá phương Tây, vốn hầu như chỉ mang tính chất thành thị, văn hoá Đông Nam Á còn lưu giữ rất nhiều những nét gắn liền nó với nông thôn, cũng như với nguồn gốc xa xưa, tức là duy trì cái cơ sở chung gắn liền với quá khứ. Những yếu tố, những đặc trưng văn hoá mang tính nông thôn còn tồn tại khá nhiều, chẳng hạn: - Nông nghiệp lúa nước và tổ chức làng xã có tính chất tự quản thích hợp với nền nông nghiệp này. - Quan niệm về gia đình xây dựng trên sự hoà hợp vợ chồng trong đó vai trò của người phụ nữ được coi trọng. - Những nghi lễ gắn liền với lá trầu, quả cau trong mọi giao tiếp xã hội. - Những tín ngưỡng gắn liền với linh hồn cha mẹ, những tàn dư vạn vật hữu linh vẫn được duy trì cho dù nước này theo Phật giáo, nước kia theo Hồi giáo hay Thiên chúa giáo. - Trong văn học vai trò của văn học dân gian vẫn chiếm vị trí quan trọng, bên cạnh dòng văn học mới ít chịu ảnh hưởng của văn học phương Tây. Các lĩnh vực văn hoá nghệ thuật khác như âm nhạc, vũ, điêu khắc, hội hoạ cũng ở trong tình trạng tương tự. - Về mặt tâm thức, con người Đông Nam Á coi trọng cộng đồng hơn cá nhân, thích hoà hợp hơn cạnh tranh, lấy tình nghĩa làm chính trong các quan hệ giưũa người với người. Như vậy, nhìn chung có thể đánh giá rằng, Đông Nam Á là một khu vực có những đặc trưng văn hoá riêng. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, bản sắc ấy ngày càng được bồi đắp thêm bởi những yếu tố mới tiến bộ. Ngày nay, các nước Đông Nam Á đều đã giành được độc lập và đang bước vào thời kì phát triển kinh tế, xây dựng xã hội mới giàu mạnh, tiên tiến, hiện đại. Chỉ với mấy chục năm khôi phục kinh tế, phát triển đất nước, các quốc gia Đông Nam Á đã thu được những thành tựu đáng kể. Có được những thành tự ấy, một trong những lý do quan trọng nhất là bởi khu vực này từ xa xưa đã có một bản sắc văn hoá chung, đặc sắc mà chỉ ngày nay trong hoàn cảnh thế giới mới, nó mới có điều kiện phát huy sức mạnh vốn có của mình. 2. Văn hoá Việt Nam và những nét đặc trưng khác biệt về văn hoá so với các nước trong khu vực Đông Nam Á 2.1. Lịch sử hình thành văn hoá Việt Nam Văn hóa Việt Nam là nền văn hóa của một quốc gia đa tộc người bởi vậy, nền văn hoá ấy được thể hiện một cách đa dạng trên mọi lĩnh vực cả về vật chất lẫn tinh thần. Mỗi khía cạnh của cuộc sống lại có những thành tựu văn hóa đặc sắc riêng, được tiếp thu phát huy từ thế hệ này sang thế hệ khác và lưu truyền đến ngày nay. Việt Nam gồm có tất cả 54 dân tộc anh em, trong đó dân tộc Kinh chiếm đa số. Chỉnh thể văn hóa Việt Nam được thể hiện bởi một nền văn hóa thống nhất của một quốc gia dân tộc bao gồm 54 sắc thái của 54 tộc người, với đặc điểm là một nền văn hóa đa tộc người vừa có tính thống nhất, vừa có tính đa dạng. Chính vì đặc điểm khi chúng ta tiếp cận văn hóa Việt Nam ta nên khám phá ở góc độ lịch sử phát triển để có thể đưa ra một cái nhìn tổng thể chính xác nhất. Việt Nam có một nền văn hoá đặc sắc, lâu đời gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc. Các nhà sử học đã thống nhất một ý kiến: Việt Nam có một cộng đồng văn hoá khá rộng lớn được hình thành vào khoảng nửa đầu thiên niên kỉ thứ nhất trước Công nguyên và phát triển rực rỡ vào giữa thiên niên kỉ này. Đó là cộng đồng văn hoá Đông Sơn. Cộng đồng văn hoá ấy phát triển cao so với các nền văn hoá khác đương thời trong khu vực, có những nét độc đáo riêng nhưng vẫn mang nhiều điểm đặc trưng của văn hoá vùng Đông Nam Á, vì có chung chủng gốc Nam Á (Mongoloid phương Nam) và nền văn minh lúa nước. Những con đường phát triển khác nhau của văn hoá bản địa tại các khu vực khác nhau (lưu vực sông Hồng, sông Mã, sông Cả...) đã hội tụ với nhau, hợp thành văn hoá Đông Sơn. Đây cũng là thời kỳ ra đời nhà nước “phôi thai” đầu tiên của Việt Nam dưới hình thức cộng đồng liên làng và siêu làng (để chống giặc và đắp giữ đê trồng lúa), từ đó các bộ lạc nguyên thuỷ phát triển thành dân tộc. Giai đoạn văn hoá Văn Lang - Âu Lạc (gần năm 3000 đến cuối thiên niên kỷ 1 trước CN) vào thời đại đồ đồng sơ khai, trải 18 đời vua Hùng, được coi là đỉnh cao thứ nhất của lịch sử văn hoá Việt Nam, với sáng tạo tiêu biểu là trống đồng Đông Sơn và kỹ thuật trồng lúa nước ổn định. Sau giai đoạn chống Bắc thuộc có đặc trưng chủ yếu là song song tồn tại hai xu hướng Hán hoá và chống Hán hoá, giai đoạn Đại Việt (từ thế kỉ 10 đến 15) là đỉnh cao thứ hai của văn hoá Việt Nam. Qua các triều đại nhà nước phong kiến độc lập, nhất là với hai cột mốc các triều Lý - Trần và Lê, văn hoá Việt Nam được gây dựng lại toàn diện và thăng hoa nhanh chóng có sự tiếp thu ảnh hưởng to lớn của Phật giáo và Nho giáo. Sau thời kì hỗn độn Lê - Mạc và Trịnh - Nguyễn chia cắt đất nước, rồi từ tiền đề Tây Sơn thống nhất đất nước và lãnh thổ, nhà Nguyễn tìm cách phục hưng văn hoá dựa vào Nho giáo, nhưng lúc ấy Nho giáo đã suy tàn và văn hoá phương Tây bắt đầu xâm nhập vào Việt Nam. Kéo dài cho tới khi kết thúc chế độ Pháp thuộc là sự xen cài về văn hoá giữa hai xu hướng Âu hoá và chống Âu hoá, là sự đấu tranh giữa văn hoá yêu nước với văn hoá thực dân. Giai đoạn văn hoá Việt Nam hiện đại được hình thành kể từ những năm 20, 30 của thế kỷ XIX, dưới ngọn cờ của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa Mác - Lênin. Với sự hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền văn minh thế giới hiện đại, đồng thời giữ gìn, phát huy bản sắc dân tộc, văn hoá Việt Nam hứa hẹn một đỉnh cao lịch sử mới. 2.2. Những đặc trưng khác biệt của văn hoá Việt Nam so với các nước trong khu vực Đông Nam Á Như chúng ta đã biết, văn hóa là một khái niệm rất rộng, nó bao gồm tất cả những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử của mình. Khi nghiên cứu về văn hóa, nhất là văn hóa của Đông Nam Á - một trong những khu vực xuất hiện dấu chân người đầu tiên trên thế giới, là nơi có bề dày lịch sử và văn hóa lâu đời, nơi hình thành rất nhiều nền văn minh... - phải thừa nhận rằng đây là một việc rất khó khăn. Mặt khác, trong các giá trị văn hóa của các quốc gia có những giá trị văn hóa nội sinh nhưng cũng có những giá trị văn hóa tiếp biến của các nền văn hóa khác, những giá trị văn hóa này pha trộn, tương đồng lẫn nhau rất khó xác định. Chính vì vậy, trong bài nghiên cứu này, nhóm không đi sâu chứng minh sự khác nhau trên từng khía cạnh của thành tựu văn hoá, bởi như vậy dễ sa vào con đường đánh giá chủ quan, hời hợt (khác nước này nhưng có thể lại giống nước kia). Mà chỉ tập trung nghiên cứu làm rõ vấn đề dựa trên những luận điểm xoay quanh vấn đề: yếu tố nội tại và sự tiếp biến văn hóa. Với phương thức lý luận này không chỉ làm rõ được sự khác nhau giữa văn hoá Việt Nam và các nước Đông Nam Á khác mà còn thể hiện được mối liên hệ biện chứng giữa chúng. 2.2.1. Văn hoá Việt Nam - sự hội tụ của Văn hoá ngã tư Về địa lý ta thấy rõ nhất, Việt Nam nằm ở bờ Tây của Thái Bình Dương, cực nam của đại lục Trung Hoa, cực bắc của vùng bán đảo và quần đảo Đông Nam Á. Chính tính chất tính chất “ngã tư” này tạo cho nó sức sống và động lực phát triển. Bốn dòng văn hóa lớn nhất Ấn - Hoa - Cận Đông - Tây đường đi qua, đan chéo nhau ở ngã tư này. Văn hóa Hán tràn ngập đại lục, ngấm đẫm Đông Bắc Á nhưng chỉ len lỏi qua những con đường mòn, những mạch suối nhỏ xuống miền Đông Nam Á. Con đường của công cuộc Ấn Độ hóa đi qua Campuchia, Trung Việt - Champa ra quần đảo Indonesia tạo nên những đỉnh cao tuyệt vời Ăngco - Mỹ Sơn - Borobudua. Cuộc Hồi giáo hóa yếu hơn cũng để dấu ấn ở Trung Việt. Còn văn minh phương Tây tiếp xúc với đất này từ đầu công nguyên, những đợt sóng thứ nhất chỉ diễn ra hồi thế kỷ 16 bằng đường thương mại mà Hội An là một nhân chứng. Đợt hai là cuộc xâm chiếm và thực dân hóa của Pháp cuối TK 19 - đầu TK 20 tiếp nối là các biến động lịch sử của cách mạng Mác xít - chủ nghĩa yêu nước chống thực dân, cuộc tiếp xúc hòa nhập với CNXH hiện thực và giờ đây là "toàn cầu hóa". Có thể nói mọi nền văn minh đều đi qua ngã tư Việt Nam nhưng khác với các ngã tư biến thành phố thị, thành trung tâm lớn thì ngã tư Việt Nam vẫn chỉ là ngã tư để đi qua, để quá cảnh. Làn gió đi qua mát mẻ nhưng sự tích đọng không nặng nề, thấm đẫm. Việt Nam không theo Phật đậm như Campuchia, không Khổng đậm như Hàn Quốc, không Kito đậm như Philippines và không Hồi giáo đậm như Indonesia. Giao tích văn hóa diễn ra kiểu “ăn hương ăn hoa” khéo léo chắt lấy tinh hoa đấy nhưng cũng hời hợt, không triệt để, đủ để tạo một khoảng trống cho chủ thể nội tại có thể phát huy sức sáng tạo của mình. Để minh chứng rõ hơn về vấn đề này chúng tôi xin đưa ra dẫn chứng về nét độc đáo của cồng chiêng Tây Nguyên so với các nước Đông Nam Á khác: Sự độc đáo và khác biệt cơ bản giữa cồng chiêng Tây Nguyên đối với cồng chiêng của các nước trong khu vực Đông Nam Á ngoài sự gắn kết với không gian văn hóa, là sự phong phú trong cơ cấu của các dàn chiêng (riêng người Gia-rai trước đây đã tồn tại 5 dàn cồng chiêng khác nhau: loại dùng trong lễ bỏ mả, loại dùng để uống rượu cần, loại dùng khi có đám rước, loại dùng tế thần lửa và loại dùng để đón người chiến sĩ chiến thắng trở về) và nhất là sự độc đáo, khác biệt trong cách thức diễn tấu. Cồng chiêng của các nước Đông Nam Á lục địa: Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanma, các nước hải đảo: Indonesia, Philippines, Malaysia với các dàn chiêng Gamelan, Gong Kebyar (Indonesia), Kulingtan (Philippines), Khong wong yai (Thái Lan, Lào), Khong thom (Campuchia), Ky waing (Myanma)... ngoài 1 đến 2 chiếc cồng lớn là treo trên giá (Agong – cặp cồng núm), còn đa phần là cồng có núm nhỏ, mà mỗi cồng có núm được úp trên một hộp bằng đồng - Gs. Trần Văn Khê mô tả như hình cái ô trầu có nắp, được sắp đặt theo một hệ thống cố định trên một giàn tròn bằng mây hoặc giá bằng gỗ. Nhạc công ngồi yên ở giữa, hai tay dùng 2 búa gỗ để gõ cồng. Nói chung, dàn cồng chiêng của họ được cấu tạo tương tự hình thức một cây đàn gõ ra giai điệu. (chỉ trừ dàn cồng Gangsa tại đảo Luson (Philippines) gồm 6 cồng phẳng, cách sắp đặt và diễn tấu lại không khác nhiều người Mnông ở Tây Nguyên). Cồng chiêng Tây Nguyên Việt Nam thì trái lại, biên chế đa dạng, không cố định, hình thành nhiều loại dàn chiêng khác nhau để phục vụ cho những sinh hoạt, lễ thức khác nhau. Có loại dàn chỉ gồm 2 chiếc (như dàn chiêng Tha) cho đến loại từ 9,11,16 cồng và chiêng. Nhạc công các dàn cồng chiêng các nước Đông Nam Á lục địa một mình với 2 tay đánh bằng dùi gõ cả dàn cồng đến 17, 19 chiếc, còn nhạc công dàn cồng chiêng Tây Nguyên thì mỗi người chỉ đánh một cồng. Mỗi nhạc công giữ một vị trí cao độ và tiết tấu, âm sắc khác nhau, đòi hỏi phải nhớ, phải tập trung tâm trí nắm chắc thời gian, nhịp điệu để gõ đúng phần của mình, vừa phải lắng nghe người khác trong dàn nhạc để tạo nên sự hòa hợp, đồng cảm chung. Vì vậy, để tham gia diễn tấu được một bài chiêng, thì yếu tố “nhạc cảm”, năng khiếu bẩm sinh là vấn đề quan trọng, không phải là ai cũng có thể làm ngay được. Đặc biệt là sự quy định chức năng từng loại cồng trong dàn nhạc: “Chiếc cồng phát ra âm thanh thấp – vốn là âm cơ bản – mang tên “mẹ”. Trong những dàn có 9 cồng chiêng trở lên thì có thêm cồng “cha”, ... tiếp theo là các cồng con, cồng cháu... hình thành hệ thống gia đình mang dấu vết chế độ mẫu hệ của người Tây Nguyên. Khi diễn tấu, cồng mẹ và cồng cha được phân công phần trầm làm nền, cồng con và các cồng khác đánh so le trước – sau, nhanh – chậm để tạo ra giai điệu” . Điều khác biệt nữa là nhạc công dàn chiêng Tây Nguyên không ngồi yên tại chỗ để gõ cồng như các nước Lào, Thái Lan, Campuchia, Myanma... mà luôn di động, (thường là di động xoay quanh một đối tượng được tôn vinh ở vị trí trung tâm như cây nêu... theo chiều ngược kim đồng hồ như chiều bay của cánh chim Lạc trên mặt trống đồng) và đa dạng về động tác (tùy theo sự cảm hứng diễn đạt trong quá trình diễn tấu như khom người, nghiêng mình, cúi mặt...). Cách gõ cồng của Tây Nguyên có hai cách: đánh bằng dùi và đánh bằng cườm tay. Đánh bằng dùi, nếu là dùi mềm cho âm thanh tròn trĩnh, dịu dàng, trầm lắng, nếu là dùi cứng cho âm thanh độ mãnh liệt, sắc nhọn. Đánh bằng cườm tay cho âm thanh cảm giác mờ ảo, xa xăm, huyền bí, hoang sơ. Bàn tay trái phía sau cồng không chỉ để giữ cồng mà cũng tham gia diễn tấu, lúc bịt lúc mở mặt chiêng để tạo tiếng ngắt, tiếng ngân theo từng sắc thái của bài chiêng. Bởi vậy có thể khẳng định: “không bao giờ bật gốc qua các cơn bão lốc, luôn bảo tồn cái vốn có một cách dai đẳng, khéo léo nhưng cũng không đột biến, bùng phát tới một đỉnh nào” - chính là nét khác biệt dễ nhận thấy nhất trong văn hóa Việt Nam”. Chính yếu tố này đã tạo nên một nền văn hoá Việt Nam vừa truyền thống vừa có sự tiếp biến mềm mại không làm mất đi bản sắc riêng của dân tộc. 2.2.2. Văn hoá Việt Nam và con đường “trung dung” vừa phải Không cực đoan, không triệt để, không đi tới cùng, không quá khích, không đồ sộ, không lấn át, không cuồng nhiệt... mà mềm dẻo, linh hoạt, bền bỉ, xinh xắn, khôn khéo, có tình, có nghĩa... đại loại đó là người Việt và Việt Nam. Sông dài, biển rộng, núi cao nhưng ấn tượng sâu sắc về non sông Việt là những cái đèo và những sông nhỏ hiền lành Cầu, Đường, Hương, Thu Bồn.... Trong văn chương, hội họa, phong cảnh không phải biển hùng vĩ như biển hồ Tonle sap (Campuchia) hay những ngọn núi lửa phun đầy hoang dại như Cụm núi lửa Tengger Caldera (Indonesia). Kiến trúc thì cũng xinh xắn, to nhất là các đình, hoàng cung Huế cũng rất vừa phải, các quốc tự quốc tháp (trong tứ đại khí) thời Lý Trần cũng rất xinh so với chùa tháp ở Thái Lan, Malaysia và thật nhỏ bé so với Ăngco hay Borobudua. Vẻ đẹp đàn bà không "nghiêng nước, nghiêng thành", "chim sa cá lặn" mà "Cổ tay em trắng như ngà..." rất vừa phải. Người đàn ông không vạm vỡ, lực lưỡng, uy quyền mà khá nhu nhược, ủy mị - nho nhã. Vẻ hùng tráng của Từ Hải hay người chinh phu của Nguyễn Du và Đặng Trần Côn có phần vay của Tầu nhưng cũng vừa phải không thể so với những Bạch Khởi, Hạng Võ... bên Tàu. Màu sắc không cực đoan, một chiều như màu vàng ánh kim mà người Thái vẫn ưa chuộng mà thường dùng màu trung gian: cánh sen, nõn chuối, cổ vịt, mỡ gà... Các nhân vật chính trị không quyết liệt độc tài độc đoán... như Campuchia mà được tôn vinh phần lớn là vua hiền lành, nhân đức. Trong tôn giáo thì sự hòa trộn là rất khéo léo, ít tính cuồng tín như Mianma, mà tin theo vừa phải và lỏng lẻo. Xung đột tôn giáo không bao giờ quyết liệt. Chất tâm linh thần bí không sâu như Ấn Độ, tính thực dụng duy lợi, ý chí, mưu mô không cương hoạnh như Trung Hoa. Đặc biệt, điển hình nhất phải kể đến quá trình hình thành ngôn ngữ Việt Nam. Từ xưa, ngôn ngữ vốn được xem là thành tựu đặc trưng cho sự phát triển của nền văn minh mỗi một dân tộc. Ở đây quá trình hình thành chữ viết Việt Nam không chỉ thể hiện trình độ phát triển mà còn chứng nhân lịch sử của sự giao lưu trung dung, “có gạn lọc, tiếp biến” của trí tuệ Việt. Về nguồn gốc tiếng Việt, có nhiều giả thuyết. Giả thuyết giầu sức thuyết phục hơn cả: tiếng Việt thuộc dòng Môn-Khmer của ngữ hệ Đông Nam Á, sau chuyển biến thành tiếng Việt-Mường (hay tiếng Việt cổ) rồi tách ra. Trong tiếng Việt hiện đại, có nhiều từ được chứng minh có gốc Môn-Khmer và tương ứng về ngữ âm, ngữ nghĩa khi so sánh với tiếng Mường. Trải qua nghìn năm Bắc thuộc, và dưới các triều đại phong kiến, ngôn ngữ chính thống là chữ Hán, nhưng cũng là thời gian tiếng Việt tỏ rõ sức sống đấu tranh tự bảo tồn và phát triển. Chữ Hán được đọc theo cách của người Việt, gọi là cách đọc Hán-Việt và được Việt hóa bằng nhiều cách tạo ra nhiều từ Việt thông dụng. Tiếng Việt phát triển phong phú đi đến ra đời hệ thống chữ viết ghi lại tiếng Việt trên cơ sở văn tự Hán vào thế kỉ 13 là chữ Nôm. Thời kỳ thuộc Pháp, chữ Hán dần bị loại bỏ, thay thế bằng tiếng Pháp dùng trong ngôn ngữ hành chính, giáo dục, ngoại giao. Nhưng nhờ chữ Quốc ngữ, có lợi thế đơn giản về hình thể kết cấu, cách viết, cách đọc, văn xuôi tiếng Việt hiện đại thực sự hình thành, tiếp nhận thuận lợi các ảnh hưởng tích cực của ngôn ngữ văn hóa phương Tây. Chữ quốc ngữ là sản phẩm của một số giáo sĩ phương Tây trong đó có Alexandre de Rhodes hợp tác với một số người Việt Nam dựa vào bộ chữ cái Latinh để ghi âm tiếng Việt dùng trong việc truyền giáo vào thế kỉ 17. Chữ quốc ngữ dần được hoàn thiện, phổ cập, trở thành công cụ văn hóa quan trọng. Cuối thế kỉ 19, đã có sách báo xuất bản bằng chữ quốc ngữ. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, tiếng Việt và chữ quốc ngữ giành được địa vị độc tôn, phát triển dồi dào, là ngôn ngữ đa năng dùng trong mọi lĩnh vực, ở mọi cấp học, phản ánh mọi hiện thực cuộc sống. Ngày nay, nhờ cách mạng, một số dân tộc thiểu số ở Việt Nam cũng có chữ viết riêng. Đặc điểm của tiếng Việt: đơn âm nhưng vốn từ cụ thể, phong phú, giầu âm sắc hình ảnh, lối diễn đạt cân xứng, nhịp nhàng, sống động, dễ chuyển đổi, thiên về biểu trưng, biểu cảm, rất thuận lợi cho sáng tạo văn học nghệ thuật. 2.2.3. Văn hoá làng - tổ chức cộng đồng căn bản của văn hoá Việt Cộng đồng người Việt được tổ chức theo các đơn vị cơ bản là làng. Các nhà nghiên cứu về làng xã Việt Nam cũng đã thừa nhận rằng: “Làng kiểu Việt Nam, nhất là ở Bắc Bộ không thấy ở nơi nào khác trên thế giới.” Cái làng phát triển nhất cũng không là tiền thân đô thị phong kiến hay tư bản như ở các nước khác. Nó không chỉ là nơi tụ hội, cố kết các phong tục tập quán và những thành tựu văn hóa dân gian như từ Phan Kế Bính tới các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian hiện nay quan niệm. Làng là một tổ chức khá khép kín. Về quy hoạch, làng là một cụm dân cư nông nghiệp, thủ công nghiệp với diện tích nhỏ. Về hành chính, nó không phải một đơn vị như thôn - xã - huyện, tỉnh mà được gắn kết dựa trên huyết thống. Về kinh tế, các làng nghề là đỉnh cao của kinh tế Việt Nam thời phong kiến với các tổ nghệ - đáng gọi là các anh hùng lao động, khoa học công nghệ thời đó. Từ làng mạng lưới thương mại quốc gia được nối kết qua một số đầu mối như Thăng Long, Phố Hiến, Hội An. Sản xuất không tập trung về đô thị... Về tín ngưỡng, làng thường có đình làng là nơi thờ cúng các vị thành hoàng và hội họp dân làng, nơi tổ chức các lễ hội quan trọng. Làng được bao bọc bởi lũy tre và có cổng, trong làng còn có cây đa, có thể có chùa. Ngôi đình tiếp nối các nhà to - nhà cộng đồng Đông Nam Á và là nhà hành chính - nhà thờ và nhà văn hóa của làng. Về văn hóa, làng cũng là địa bàn, là cái nôi sinh ra tới 90% di sản văn hóa Việt. Kiến trúc, điêu khắc, ca, vũ, kịch tới múa rối, các trò chơi, thể thao... đều là của làng, có tiếng có chất lượng thì thành của cả nước giống như các món ăn, các sản phẩm như gạch Bát Tràng, rượu làng Vân, bún làng Mọc. Tầng lớp trí thức không làm quan chỉ ở làng, cáo quan cũng về làng nên phải nói trí tuệ Việt Nam tập trung ở làng. Tên danh nhân cũng gọi theo làng như cụ Tiên Điền, ông Yên Đổ. Đơn vị xã hội nhỏ hơn làng là các gia đình. Gia đình được tổ chức theo thứ bậc chặt chẽ, người dưới phải có hiếu và kính trọng người trên, người trên có nghĩa vụ phải chăm lo dạy dỗ con cháu nên người. Các gia đình nhiều thế hệ hợp thành dòng họ. Các dòng họ gắn kết với làng, tranh thế lực ở làng. Những người đứng đầu làng được mọi người tôn kính, thường là những người già cả, người có tiền, được gọi là các trưởng làng. Hương ước là một sản phẩm độc đáo của làng và có lẽ chỉ ở Việt Nam mới có. Lệ làng làm nghiêng phép nước tạo ra một nền dân chủ làng và một thế tự trị lỏng lẻo nhưng rất bền chặt. Hệ thống giá trị quyền lực theo các thang: chi tộc - học vấn - chức sắc - tài sản đan dệt khá tinh vi, phức tạp. Có lẽ vì vậy, từ Nguyên, Minh, Thanh tới Pháp, Mỹ đều không thể chiếm được làng dù đã tạm thời chiếm cả nước? Qua nhiều thế kỷ phát triển, Làng biểu hiện tất cả những nét tốt đẹp cũng như những hiện tượng tiêu cực của văn hóa Việt Nam thời phong kiến. Nhận định, đánh giá Như vậy, có thể nói Văn hóa dân tộc Việt Nam nảy sinh từ một môi trường sống cụ thể: xứ nóng, nhiều sông nước, nơi gặp gỡ của nhiều nền văn minh lớn. Điều kiện tự nhiên (nhiệt, ẩm, gió mùa, sông nước, nông nghiệp trồng lúa nước...) đã tác động không nhỏ đến đời sống văn hóa vật chất và tinh thần của dân tộc, đến tính cách, tâm lý con người Việt Nam. Tuy nhiên, điều kiện xã hội và lịch sử lại là những yếu tố chi phối rất lớn đến văn hóa và tâm lý dân tộc. Cho nên cùng là cư dân vùng trồng lúa nước, vẫn có những điểm khác biệt về văn hóa giữa Việt Nam với Thái Lan, Lào, Indonesia, Ấn Độ... Cùng cội nguồn văn hóa Đông Nam Á, nhưng do sự thống trị lâu dài của nhà Hán, cùng với việc áp đặt văn hóa Hán, nền văn hóa Việt Nam đã biến đổi theo hướng mang thêm các đặc điểm văn hóa Đông Á. Dân tộc Việt Nam hình thành sớm và luôn luôn phải thực hiện các cuộc chiến tranh giữ nước, từ đó tạo nên một đặc trưng văn hóa nổi bật: tư tưởng yêu nước thấm sâu và bao trùm mọi lĩnh vực. Các yếu tố cộng đồng có nguồn gốc nguyên thuỷ đã sớm được cố kết lại, trở thành cơ sở phát triển chủ nghĩa yêu nước và ý thức dân tộc. Chiến tranh liên miên, đó cũng là lý do chủ yếu khiến cho lịch sử phát triển xã hội Việt Nam có tính bất thường, tất cả các kết cấu kinh tế - xã hội thường bị chiến tranh làm gián đoạn, khó đạt đến điểm đỉnh của sự phát triển chín muồi. Cũng vì chiến tranh phá hoại, Việt Nam ít có được những công trình văn hóa-nghệ thuật đồ sộ, hoặc nếu có cũng không bảo tồn được nguyên vẹn. Qua những nét đặc trưng căn bản trên chúng ta có thể đưa ra nhận định như sau: Bản sắc văn hóa Việt, thế mạnh của nó chính là tính lưỡng căn - hai gốc rễ ( lưỡng thể vừa văn hóa biển vừa văn hóa đại lục) - Đông Á - Đông Nam Á. Ta “gần” – “giống” Trung Hoa, Nhật Bản - Triều Tiên bao nhiêu thì cũng gần Thái, Malaysia, Indonesia... bấy nhiêu. Chính yếu tố lưỡng căn vừa Đông Á vừa Đông Nam Á, kết hợp yếu tố là ngã tư Đông - Tây - Nam - Bắc nên người Việt chịu nhiều áp lực bên ngoài, biết né tránh đối đầu cực đoan có tính sinh tử, rất bền bỉ, khôn khéo, luồn lách thích ứng; nương theo tình thế mà ứng phó, phát triển; cứng thì cũng như các ngọn đèo, mềm mại thì như những dòng sông mà tự né tránh bảo tồn mình phát triển mãi về phía Nam. Ngay cuộc Nam Tiến cũng diễn ra chậm chạp, đồng hóa, chuyển hóa, hòa nhập từ từ cả ngàn năm chứ không huỷ diệt, thôn tính kiểu nhà Nguyên hay Ba Tư, La Mã. Trong giao tích văn hóa thu nhận những ảnh hưởng bên ngoài người Việt cũng rất vừa phải, từ từ, có khi rụt rè và không triệt để như các nước Đông Nam Á khi chuyển tôn giáo theo Hồi hay Kito. Đạo Phật Việt Nam rất nhu hòa gần gũi một cách mơ hồ với dân làng, đạo Lão thâm thúy hay Phật giáo Nam Tông chặt chẽ ảnh hưởng không lớn. Kể cả trong trường hợp tiếp nhận văn hoá phương Tây cũng vậy: chỉ học cái ẻo lả, cảnh vẻ, khoan hòa của người Pháp chứ ít học cái duy lý Đức hay cuồng nhiệt Tây Ban Nha hay thực dụng mạnh mẽ của Anh mà sự học này cũng chỉ vừa phải, giống như khi xưa anh nho sinh, ông quan đạo Khổng cũng không như Trung Hoa mà vẫn là một anh người làng. Bởi vậy có thể khẳng định, xuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt Nam, đã có ba lớp văn hóa chồng lên nhau là lớp văn hóa bản địa, lớp văn hóa giao lưu với Trung Quốc và khu vực, lớp văn hóa giao lưu với phương Tây. Nhưng đặc điểm chính của Việt Nam là nhờ gốc văn hóa bản địa vững chắc nên đã không bị ảnh hưởng văn hóa ngoại lai đồng hóa, trái lại còn biết sử dụng và Việt hóa các ảnh hưởng đó làm giàu cho nền văn hóa dân tộc. Dựa trên những lý luận đã nêu chúng tôi xin được tóm tắt lại những nét bản sắc đặc thù của văn hoá Việt. Có thể nó không hẳn đã là của riêng một dân tộc Việt nhưng qua bao thế kỉ được tôi luỵên trong dòng chảy lịch sử dân tộc, tất cả đây đã trở thành một phần bản chất, một sức sống Việt, sức sống của dân tộc, của quốc gia: - Có một nền văn hóa lâu đời phát triển một cách bền bỉ. Tình cảm tôn giáo bàng bạc (religosité), không cuồng tín. Ảnh hưởng còn mạnh của các tín ngưỡng bản địa (vật linh). Tín ngưỡng dân gian sống dẻo dai và hoà trộn cả vào các tôn giáo chính thống. Các tôn giáo bên ngoài du nhập vào Việt Nam không làm mất đi tín ngưỡng dân gian bản địa mà hoà quyện vào nhau làm cho cả hai phía đều có những biến thái nhất định. Ví dụ Nho giáo không hạ thấp được vai trò người phụ nữ, việc thờ Mẫu ở Việt Nam rất thịnh hành. Tính đa thần, dân chủ, cộng đồng được thể hiện ở việc thờ tập thể gia tiên, thờ nhiều cặp thần thánh, vào một ngôi chùa thấy không chỉ thờ Phật mà thờ cả nhiều vị khác, thấn linh có mà người thật cũng có. Và có lẽ chỉ ở Việt Nam mới có chuyện con cóc kiện cả ông Trời, cũng như môtíp người lấy tiên trong các chuyện cổ tích. Đây chính là những nét riêng của tín ngưỡng Việt Nam. - Ở Việt Nam không có một hệ thống lý luận triết học và tư tưởng riêng, thiếu triết gia tầm cỡ quốc tế, nhưng không có nghĩa là không có những triết lý sống và những tư tưởng phù hợp với dân tộc mình: + Xã hội nông nghiệp có đặc trưng là tính cộng đồng làng xã với nhiều tàn dư nguyên thuỷ kéo dài đã tạo ra tính cách đặc thù của con người Việt Nam. Người Việt có tinh thần cộng đồng cao; dân tộc sớm phát triển (gia đình - làng - nước). Lý do: tập hợp chống ngoại xâm, đắp đê. Hạt nhân: làng xã cổ truyền. Tinh thần yêu nước là yếu tố chủ đạo trong việc cố kết làng xã. + Đó là một lối tư duy lưỡng hợp (dualisme), một cách tư duy cụ thể, thiên về kinh nghiệm cảm tính hơn là duy lý, ưa hình tượng hơn khái niệm, nhưng uyển chuyển linh hoạt, dễ dung hợp, biết thích nghi để tồn tại, ứng xử mềm mỏng, dung hoà. Như với trường hợp của phát triển của tôn giáo Việt Nam, thời Lý-Trần, Phật giáo cực thịnh nhưng vẫn đón nhận cả Nho giáo, Lão giáo, tạo nên bộ mặt văn hóa mang tính chất "Tam giáo đồng nguyên" (cả ba tôn giáo cùng tồn tại). + Quen sống thanh bạch, đơn sơ mộc mạc. Do đó thích cái bình dị, cái khéo, xinh, duyên dáng hơn tìm cái huy hoàng tráng lệ. Nghệ thuật tạo hình Việt Nam cũng chú trọng diễn tả nội tâm mà giản lược về hình thức, dùng nhiều thủ pháp cách điệu, nhấn mạnh.v.v.
Câu 10:Điều kiện hình thành nền văn minh Hy Lạp – La Mã và những thành tựu cơ bản của nền văn minh Hy Lạp – La Mã cổ đại.
1. Diều kiện hình thành nền văn minh Hy Lạp – La Mã
a) Điều kiện hình thành nền văn minh Hy Lạp
* Địa lý và dân cư:
- Vùng đất của thế giới Hy Lạp cổ đại lớn hơn nước Hy Lạp ngày nay rất nhiều, nó gồm miền Nam bán đảo Bancăng (Balkans), các đảo trên biển Êgiê (Aegean) và phía tây Tiểu Á. Trung tâm của thế giới Hy Lạp cổ đại nằm ở phía nam bán đảo Bancăng.
- Đất đai Hy Lạp không được phì nhiêu, không thuận lợi cho việc trồng cây lương thực, địa hình lại còn bị chia cắt thành nhiều vùng đồng bằng nhỏ hẹp. Nhưng bù lại, Hy Lạp có nhiều vũng, vịnh, thuận lợi cho việc lập những hải cảng. Ở đây còn có nhiều khoáng sản lại tương đối dễ khai thác như đồng, vàng, bạc...Chính vì vậy, kinh tế Hy Lạp cổ đại chú trọng phát triển về công, thương nghiệp hơn nông nghiệp, nhất là buôn bán đường biển. Đặc điểm này của kinh tế cũng làm cho nền văn minh Hy Lạp cổ tuy phát triển sau văn minh Ai Cập cố, nhưng những lái buôn Hy Lạp trong quá trình ngang dọc trên Địa Trung Hải cũng học được nhiều điều hay từ Ai Cập và Lưỡng Hà.
- Về dân cư, dân Hy Lạp cổ đại gồm nhiều tộc người như người Êôliêng (Eolien), Akêăng (Acheen), Đôriêng (Dorien)...Lúc đầu các tộc người này đều gọi theo tên riêng từ thời bộ lạc của mình, tới thế kỉ VIII-VII TCN các tộc người đó đều tự gọi một tên chung là Helen (Hellenes) và gọi đất nước mình là Hella (Hella) tức Hy Lạp .
b) Điều kiện hình thành nền văn minh La Mã.
- Bán đảo Italia, nơi hình thành nhà nước La Mã cổ đại nằm ở Nam Âu như một chiếc chân người chìa ra Địa Trung Hải.
- Bán đảo Italia có nhiều đồng bằng, tương đối thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp, trong lòng đất lại chứa nhiều khoáng sản, thuận lợi cho nghề luyện kim. Địa hình ở đây lại không bị chia cắt, tạo điều kiện cho sự thống nhất. Bờ biển ở phía nam bán đảo có nhiều vịnh, cảng thuận tiện cho tàu bè trú ẩn khi thời tiết xấu. Do điều kiện địa lí như vậy nên bán đảo Italia có điều kiện tiếp xúc với những nền văn minh phát triển sớm ở phương Đông.
- Người dân có mặt sớm nhất ở trên bán đảo Italia được gọi là Italiot, trong đó bộ phận sống trên đồng bằng latium được gọi là người Latinh (Latin), ngoài ra còn có một số nhỏ người gốc Gôloa, gốc Hy Lạp.
2. Những thành tựu cơ bản của nền văn minh Hy Lạp – La Mã
a) Những thành tựu cơ bản của văn minh Hy Lạp.
Tuy xuất hiện muộn hơn nền văn minh Ai Cập nhưng nhờ tiếp thu được nhiều giá trị từ Ai Cập và Lưỡng Hà cổ đại và phát triển lên, nâng lên tầm khái quát, nên nền văn minh Hy Lạp cổ đại đã có rất nhiều đóng góp giá trị.
* Chữ viết: Về chữ viết, người Hy Lạp cổ đại đã dựa trên hệ thống chữ viết của người Phênixi (Phoenicia) rồi cải tiến, bổ xung thành một hệ thống chữ cái mới gồm 24 chữ cái. Từ chữ Hy Lạp cổ sau này đã hình thành nên chữ Latinh và chữ Slavơ. Đó là cơ sở chữ viết mà nhiều dân tộc trên thế giới ngày nay đang sử dụng.
* Văn học: Văn học Hy Lạp cổ đại có thể chia ra làm ba bộ phận chủ yếu có liên quan với nhau, đó là thần thoại, kịch, thơ.
- Người Hy Lạp có một hệ thống thần thoại rất phong phú để mô tả thế giới tự nhiên, nói lên kinh nghiệm cuộc sống và cả tâm tư sâu kín của con người. Hầu như trong cuộc sống thời đó có việc gì thì đều có thần bảo trợ, lo về công việc đó. Kho tàng thần thoại Hy Lạp mãi tới ngày nay còn được nhiều môn nghệ thuật ở các nước trên thế giới khai thác. Đây là một dân tộc có một kho tàng thần thoại mà nhiều dân tộc lớn trên thế giới phải ghen tị. Về sau, khi có chữ viết, kho tàng thần thoại này được Hêdiốt ( nhà thơ Hy Lạp sống vào thế kỉ VIII TCN ) hệ thống lại trong tác phẩm Gia phả các thần.
- Thơ ca là thể loại văn học rất phát triển, đặc biệt nó có thế mạnh khi chưa có chữ viết. Tiêu biểu nhất phải kể đến tác phẩm Iliat và Ôđixê của Homer ( thế kỉ IX TCN ). Tới thế kỉ VII-VI TCN xuất hiện nhiều nhà thơ được công chúng ưa thích như Acsilôcút, Xôlông, Xaphô, Anacrêông...
- Hy Lạp là quê hương của kịch nói phương Tây. Ở đây có cả bi kịch lẫn hài kịch. Những nhà viết kịch nổi tiếng thời đó như Etsin, Sôphôclơ, Ơripit...
* Sử học: Từ thế kỉ VIII-VI TCN, lịch sử Hy Lạp chỉ được truyền lại bằng truyền thuyết và sử thi. Đến thế kỉ V TCN lịch sử ở Hy Lạp mới trở thành một bộ môn riêng biệt. Các nhà viết sử tiêu biểu của Hy Lạp thời đó là Hêrôđôt (Herodotus) với cuốn Lịch sử chiến tranh Hy-Ba , Tuyxiđit (Thuycudides) cuốn Lịch sử chiến tranh Plôpônedơ.
* Kiến trúc, điêu khắc: Những công trình kiến trúc của Hy Lạp cổ đại không hùng vĩ như của Ai Cập cổ đại nhưng nó lại nổi bật ở sự thanh thoát, hài hoà. Các công trình kiến trúc ở Hy Lạp cổ đại thường được xây dựng trên những nền móng hình chữ nhật với những dãy cột đá tròn ở bốn mặt. Qua nhiều thế kỉ, người Hy Lạp cổ đại đã hình thành ra ba kiểu cột mà ngày nay người ta vẫn thể hiện trong trường phái “cổ điển”.Kiểu Đôric (thế kỉVIITCN), trên cùng là những phiến đá vuông giản dị không có trang trí; kiểu Lônic (t.kỉ V TCN) cột đá tròn thon hơn, có đường cong ở bốn góc phiến đá hình vuông như hai lọn tọc uốn; kiểu Côranh ( thế kỉ IV TCN ) có những cành lá dưới những đường cong, thường cao hơn và bệ đỡ cầu kì hơn.
- Các công trình kiến trúc tiêu biểu thời bấy giờ là đền Pactơnông (Parthenon) ở Aten, đền thờ thần Dớt (Zeus) ở núi Olempia, đền thờ nữ thần Atena (Athena).
- Các nhà điêu khắc ở Hy Lạp cổ đại cũng để lại nhiều tác phẩm tới bây giờ vẫn xứng đáng là mẫu mực cho điêu khắc như các pho tượng Vệ nữ ở Milô, tượng Lực sĩ ném đĩa, tượng nữ thần Atena, tượng thần Hecmet...Những nhà điêu khắc tiêu biểu thời đó như Phiđat ( Phidias), Mirông( Miron),Pêliklêt,(Polykleitos)...
* Khoa học tự nhiên: Thế giới Hy Lạp cổ đại còn cống hiến cho nhân loại nhiều nhà bác học mà đóng góp của họ tới nay vẫn còn giá trị như: Ơclit (Euclide), người đưa ra các tiên đề hình học đặt cơ sở cho môn hình học sơ cấp. Pitago ( Pythagoras), ông đã chứng minh định lí mang tên ông và ngay từ thế kỉ V TCN ông đã đưa ra giả thuyết trái đất hình cầu. Talét (Thales), người đã đưa ra Tỉ lệ thức (Định lí Talét). Đặc biệt là Acsimet (Archimede), người đã đề ra nguyên lí đòn bẩy, chế ra gương cầu lõm, máy bắn đá và phát hiện ra lực đẩy tác động lên một vật nếu vật đó trong lòng chất lỏng (lực đẩy Acsimet).
* Triết học: Hy Lạp cổ đại là quê hương của triết học phương Tây, ở đây có cả hai trường phái triết học duy vật và duy tâm. Đại diện cho trường phái duy vật là các nhà triết học nổi tiếng như: Talét (Thales), Hêraclit (Heracleitus), Đêmôcrit (Democritus)... Đại diện cho trường phái duy tâm là các nhà triết học: Platôn, Arixtôt.
* Luật pháp và tổ chức nhà nước: Các quốc gia ở phương Tây chịu ảnh hưởng nhiều về hệ thống pháp luật và cách tổ chức nhà nước từ Hy Lạp cổ đại.
- Nhà nước ở Hy Lạp cổ đại hình thành trên cơ sở sự tan rã của xã hội thị tộc. Nhà nước dân chủ chủ nô ở Hy Lạp ngày càng được hoàn thiện qua những cải cách của Xôlông (Solon), Clisten (Clisthenes) và Pêliclêt (Pericles).
- Về luật pháp, bộ luật cổ nhất của Hy Lạp là bộ luật Đracông (Dracon), bộ luật này có những hình phạt rất khắc nghiệt, có khi chỉ ăn cắp cũng bị xử tử. Sau này, nhờ những cải cách của Xôlông, Clisten, luật pháp Hy Lạp ngày càng mang tính dân chủ hơn (nhưng cũng chỉ công dân tự do mới được hưởng, nô lệ thì không).
b) Những thành tựu của nền văn minh La Mã.
Người La Mã không chỉ kế thừa nền văn minh của người Hy Lạp thời cổ đại mà còn có những đóng góp đáng kể, tạo thành nền văn minh Hy-La, cơ sở của văn minh Tây Âu sau này.
* Chữ viết: Từ chữ Hy Lạp cổ, người La Mã đã đặt ra một loại chữ riêng của mình mà ngày nay ta quen gọi là chữ Latinh. Đây là một thứ chữ viết đơn giản, thuận tiện nên đã được sử dụng rộng rãi trong toàn bộ đế quốc và sau này đã trở thành chữ viết của nhiều quốc gia trên thế giới.
* Văn học: Văn học La Mã cổ đại cũng có nhiều thể loại như thơ, kịch, sử thi với các tác giả nổi tiếng như Xixêrông (Xixeron), Viêcghin (Vergil), Hôratiut (Horatius).
* Sử học: Từ thế kỉ III TCN, người La Mã đã có viết sử nhưng họ viết bằng chữ Hy Lạp. Người đầu tiên viết sử La Mã bằng chữ Hy Lạp là Phabiut.
Người viết sử La Mã bằng chữ Latinh đầu tiên là Cato(234-149 TCN). Sau đó còn nhiều người khác như Plutac, Tacitus.
* Triết học: Các nhà triết học La Mã cũng đã kế thừa truyền thống của triết học Hy Lạp, kế thừa những tư tưởng duy vật của Đêmôcrit. Những nhà triết học tiêu biểu thời kì đó như: Lucretius, Ciceron.
* Luật pháp: Bộ luật thành văn cổ nhất ở La Mã là bộ Luật 12 bảng. Nó được gọi như vậy vì được khắc vào 12 bảng đá vào năm452 TCN.
* Khoa học tự nhiên: Các nhà khoa học người La Mã cũng có công sưu tập, tổng hợp những kiến thức khoa học khắp vùng Địa Trung Hải. Những nhà khoa học nổi tiếng thời đó như Plinius, Ptôlêmê, Hêrôn
* Y học: Ông tổ của Y học phương Tây là Hipôcrat (Hippocrates). Ông đặc biệt được đời sau luôn nhớ tới bởi lời thề Hypôcrat khi nhắc những người bước chân vào ngành y. Cuốn Phương pháp chữa bệnh của Ông để lại đã được dùng làm sách giáo khoa cho nhiều trường đại học ở châu Âu mãi tới thời cận đại.
* Kiến trúc và điêu khắc: Một trong những giá trị kiến trúc của người La Mã thể hiện qua các cầu vòm bằng đá. Nhờ những chiếc cầu này mà hệ thống giao thông nối liền các vùng của đế chế La Mã trở nên thuận lợi.
Công trình kiến trúc La Mã nổi tiếng hay được nhắc đến là đền Pactơnông, đấu trường Côlidê và Khải hoàn môn. Kiến trúc sư La Mã nổi tiếng thời đó là Vitorius.
Điêu khắc La Mã có cùng phong cách với điêu khắc Hy Lạp. Những bức tượng còn lại ở thành Rôma và những phù điêu trên Khải hoàn môn là hiện vật tiêu biểu cho điêu khắc La Mã.
Câu 11:Sự ra đời và phát triển của đạo Ky tô thời cổ trung đại ở châu Âu
1. Sự ra đời:
Theo truyền thuyết, người sáng lập ra đạo Kitô là Jesus Crit, con của chúa Trời đầu thai vào người con gái đồng trinh Maria. Jesus Crit ra đời vào khoảng thế kỉ IV TCN tại Béthleem (Palestin ngày nay). Đến năm 30 tuổi, Jesus Crit bắt đầu đi truyền đạo.
Đạo Kitô khuyên con người nhẫn nhục chịu đựng đau khổ nơi trần gian để khi chết sẽ được hưởng hạnh phúc nơi thiên đàng. Chúa Trời sáng tạo ra thế giới này. Chúa Trời, chúa Jesus, thành thần tuy ba mà là một ( tam vị nhất thể ). Đạo Kitô cũng có quan niệm thiên đường, địa ngục, thiên thần, ma quỉ... Giáo lí của đạo Kitô gồm có Kinh cựu ước (tiếp nhận của đạo Do Thái) và Kinh tân ước (kể từ khi chúa Jesus ra đời). Luật lệ của đạo Kitô thể hiện trong 10 điều răn.
Về tổ chức, lúc đầu các tín đồ đạo Kitô tổ chức thành những công xã vừa mang tính chất tôn giáo, vừa giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống. Đến thế kỉ II, các công xã Kitô dần phát triển thành Giáo hội.
2. Sự phát triển của Đạo Kitô
Khi mới ra đời, đạo Kitô bị các hoàng đế La Mã và bọn quí tộc địa phương đàn áp rất tàn bạo. Vụ đàn áp đẫm máu nhất là vụ đàn áp vào năm 64, dưới thời hoàng đế Nêrông, máu của biết bao nhiêu tín đồ đã đổ. Nhưng số người theo đạo Kitô không những không giảm mà ngày càng tăng lên. Về sau, Giáo hội đề ra nguyên tắc “vương quốc thì trả cho vua, thiên quốc thì trả cho Chúa trời” tức là tôn giáo không dính dáng đến chính trị. Thấy đàn áp mãi không có tác dụng, các hoàng đế La Mã nghĩ tới biện pháp chung sống. Năm 311, một hoàng đế La Mã đã ra lệnh ngưng đàn áp các tín đồ Kitô. Năm 313, đạo Kitô được hoàng đế La Mã công nhận là hợp pháp. Năm 337, một hoàng đế La Mã lúc đó là Cônxtantinut đã gia nhập đạo Kitô.
Hoàng đế theo đạo Kitô thì đương nhiên các quan lại đua nhau theo Đạo. Ngân quĩ quốc gia cũng được chi ra để đóng góp cho Nhà thờ. Đạo Kitô được truyền bá rộng khắp trong vùng đất quanh Địa Trung Hải. Sau này, khi đế quốc La Mã tan vỡ thì đạo Kitô đã ăn sâu, lan rộng khắp châu Âu.
Câu 12Những thành tựu nổi bật của nền văn minh Tây Âu thời phục hưng
1. Văn học: Cả ba thể loại, thơ, kịch, tiểu thuyết trong nền văn học Phục hưng đều có những thành tựu quan trọng.
- Về thơ, có hai đại biểu là Đantê ( 1265-1324 ) và Pêtracca ( 1304 - 1374 ). Đantê là người mở đầu phong trào Văn hoá Phục hưng ở Ý. Ông xuất thân trong một gia đình kị sĩ suy tàn ở Plorencia. Ông đả kích các thầy tu lúc đó và cổ vũ cho sự thống nhất của đất nước Ý. Tác phẩm tiêu biểu của ông la Thần khúc và Cuộc đời mới.
- Pêtracca là một nhà thơ trữ tình Ý. Trong tác phẩm của mình, ông ca ngợi tình yêu lí tưởng, ca ngợi sắc đẹp, ca ngợi sự tự do tư tưởng và chống lại sự gò bó kinh điển.
- Về tiểu thuyết, có hai nhà văn nổi bật là Bôcaxiô ( Boccacio ), Rabơle ( F. Rabelais ) và Xecvantec (Cervantes). Boccacio là một nhà văn Ý, tác phẩm nổi tiếng của ông là tập truyện Mười ngày. Qua tác phẩm Mười ngày, ông chế diễu thói đạo đức giả, công kích cuộc sống khổ hạnh, cấm dục vì cho đó là trái tự nhiên. Ông cổ vũ cho cuộc sống vui vẻ, biết tận hưởng mọi lạc thú của cuộc sống.
- F. Rabơle là một nhà văn Pháp, ông có hiểu biết rộng rãi cả về khoa học tự nhiên, văn học, triết học và luật pháp. Tác phẩm trào phúng nổi tiếng của ông là cuộc đời không giá trị của Gargantua và Pantagruen.
- Migel de Cervantes là một nhà văn lớn của Tây Ban Nha. Tác phẩm nổi tiếng của ông là Don Quyjote. Thông qua hình ảnh chàng hiệp sĩ lỗi thời Don Quyjote, Cervantes ám chỉ tấng lớp quí tộc Tây Ban Nha với những quan niệm danh dự cổ hủ và vẽ nên bức tranh một nước Tây Ban Nha quân chủ đang bị chìm đắm trong vũng lầy phong kiến lạc hậu.
2. Kịch: Nhà viết kịch vĩ đại thời phục hưng là một người Anh có tên là W. Sếchpia. (William Shakespeare ). Ông đã viết tới 36 vở bi, hài kịch. Những vở kịch nổi tiếng ảnh hưởng tới nhiều nước trên thế giới như Rômêô và Giuyliet, Hamlet, Vua Lia, Ôtenlô...
3. Hội họa, điêu khắc: Nhà danh hoạ khổng lồ thời Phục hưng là Lêôna đơ Vanhxi ( Leonardo da Vinci), ông là một người Ý. Ông không những là một hoạ sĩ thiên tài mà còn là một con người thông thái trên nhiều lĩnh vực. Ông đã để lại những bức hoạ nổi tiếng như Bữa tiệc cuối cùng , Nàng Giôcôngđơ ( La Joconde ), Đức mẹ đồng trinh trong hang đá. Từ thế kỉ XV, ông đã đưa ra ý tưởng sử dụng cánh quạt đẩy nước cho thuyền thay mái chèo; vẽ ra nguyên tắc hoạt động của máy bay trực thăng, dù thoát hiểm...nhưng những kĩ thuật hồi đó không cho phép ông thực hiện những ý tưởng của mình.
- Mikenlăngiơ (Michelangelo) ra đời ở Ý(1475-1564). Ông là một danh hoạ, một nhà điêu khắc nổi tiếng, đồng thời còn là một kiến trúc sư, một thi sĩ. Tác phẩm tiêu biểu của ông là bức hoạ Sáng tạo thế giới vẽ trên trần nhà thờ Xixtin gồm có 343 nhân vật. Còn bức Cuộc phán xét cuối cùng thì được vẽ trên tường nhà thờ Xixtin. Về điêu khắc, ông để lại nhiều bức tượng tiêu biểu như pho tượng Môidơ, Ngưòi nô lệ bị trói, đặc biệt là pho tượng Đavid. Pho tượng Đavid của Mikenlăngiơ được tạc trên đá cẩm thạch cao tới 5,3 mét. Đavid ở đây không phải là một chú bé chăn cừu mà là một chàng thanh niên đang độ tuổi mười tám đôi mươi, đang độ tuổi sung sức, với cơ bắp khoẻ mạnh, vầng trán thông minh, ánh mắt tự tin, sẵn sàng đương đầu với mọi khó khăn thử thách. Mượn hình tượng Đavid, Mikenlăngiơ thể hiện sức sống đang lên của một lớp người đại diện cho một thời đại mới, thời đại cần những con người khổng lồ và đã sản sinh ra những con người khổng lồ .
- Nghệ thuật thời Phục hưng còn có sự đóng góp của những nghệ sĩ nổi tiếng khác như Raphaen ( Raffaello ), Giôtô (Giotto ), Bôtixeli ( Botticelli )...
4. Khoa học tự nhiên: Thời Phục hưng còn có sự đóng góp của nhiều nhà khoa học dũng cảm, dám chống lại những suy nghĩ sai lầm nghìn đời đã được giới quyền lực đảm bảo, thừa nhận. N. Côpecnic ( Nikolai Kopernik - 1473 - 1543 ) là một giáo sĩ người Ba Lan. Qua nhiều năm nghiên cứu, ông đã đi tới một kết luận đáng sợ hồi đó là: Trái đất quay xung quanh Mặt trời chứ không phải là Mặt trời quay xung quanh Trái đất. Thuyết Mặt trời là trung tâm đó của ông vậy là trái hẳn với thuyết Trái đất là trung tâm đã được nhà thờ công nhận hàng nghìn năm.
- Gioocđanô Brunô ( Giordano Bruno - 1548-1600 ), là một giáo sĩ trẻ người Ý. Ông tích cực hưởng ứng học thuyết của Côpecnic khi giáo hội cấm lưu hành. Không những thế, ông còn phát triển thêm tư tưởng của Côpecnic. Ông cho rằng Mặt trời không phải là trung tâm của vũ trụ mà chỉ là trung tâm của Thái dương hệ.
- Một nhà thiên văn học người Ý khác là Galilê ( Gallileo Gallilei - 1564-1642 ) tiếp tục phát triển quan điểm của Côpecnic và Brunô. Ông là người đầu tiên dùng kính viễn vọng phóng to gấp 30 lần để quan sát bầu trời. Ông đã chững minh là Mặt trăng có bề mặt gồ ghề chứ không phải là nhẵn bóng; Thiên hà là do vô số vì sao tạo thành. Ông đã giải thích hiện tượng sao chổi. Ông là cha đẻ của khoa học thực nghiêm, phát hiện ra định luật rơi tự do và dao động con lắc.
- Tiến xa hơn, nhà thiên văn học người Đức là Kêplơ ( Kepler - 1571-1630 ) đã phát minh ra ba qui luật quan trọng về sự vận hành của các hành tinh xung quanh Mặt trời. Ông đã chứng minh rằng quĩ đạo chuyển động của các hành tinh không phải là hình tròn mà là hình elíp, càng đến gần Mặt trời, vận tốc chuyển động càng tăng lên và càng xa Mặt trời thì vận tốc chuyển động càng chậm lại.
5. Triết học: Triết học cũng có những bước phát triển mới. Người mở đầu cho trường phái triết học duy vật thời Phục hưng là một người Anh, F. Baicơn ( Francis Bacon - 1561- 1626 ). Ông đề cao triết học duy vật Hy Lạp cổ đại, phê phán triết học duy tâm và triết học kinh viện.
Câu 13Kết quả và ảnh hưởng của công cuộc phát kiến địa lý đối với sự phát triển của văn minh nhân loại
1. Kết quả của công cuộc phát kiến địa lý.
- Cuộc hành trình của Vaxcodo gama men theo bờ biển châu Phi đến điểm cực nam (Mũi hy vọng) rồi vượt qua Ấn độ dương, cập bến Ấn Độ. Những chuyến đi tiếp theo đã đến các quần đảo ĐNA rồi đi vào Biển Đông tới các cacngr Trung Hoa và Nhật Bản
- Những chuyến vượt Đại Tây Dương của Crixtôp Côlông và vêpuxơ Amêrigô đã phát hiện ra lục địa châu Mỹ, khi đó được gọi là Tân thế giới hoặc nhầm lần là “Tây Ấn Độ”
- Cuộc thám hiểm của Megienlan chẳng những đã đến châu Mỹ mà còn vượt qua Thái Bình Dương để tới quàn đảo vùng ĐNA, được đặt tên là Philippin
Những chuyến vượt biển trên cùng nhiều cuộc thám hiểm tiếp theo đã đem lại nhiều kết quả to lớn vượt xa mục đích ban đầu, có ý nghĩa lịch sử trọng đại trong lịch sử loài người
2. Ảnh hưởng của cuộc phát kiến địa lý
Các nhà thám hiểm bằng những chuyến đi thực tế đầy dũng cảm của mình đã chứng minh cho giả thuyết Trái đất hình cầu. Họ còn cung cấp cho các nhà khoa học rất nhiều hiểu biết mới về địa lí, thiên văn, hàng hải, sinh vật học...
Sau những cuộc phát kiến này, một sự tiếp xúc giữa các nền văn hoá trên thế giới diễn ra do các cá nhân có nguôn gốc văn hoá khác nhau như các giáo sĩ, nhà buôn, những người khai phá vùng đất mới, những quân nhân...
Một làn sóng di chuyển dân cư lớn trên thế giới trong thế kỉ XVI-XVIII với những dòng người Châu Âu di chuyển sang Châu Mĩ, Châu Úc. Nhiều nô lệ da đen cũng bị cưỡng bức rời khỏi quê hương xứ sở sang Châu Mĩ .
Hoạt đông buôn bán trên thế giới trở nên sôi nổi, nhiều công ti buôn bán tầm cỡ quốc tế được thành lập.
Những cuộc phát kiến địa lí này cũng gây ra không ít hậu quả tiêu cực như nạn cướp bóc thuộc địa, buôn bán nô lệ da đen và sau này là chế độ thực dân.
Câu 14:Hoàn cảnh ra đời và ảnh hưởng của phong trào văn hóa phục hưng
1. Hoàn cảnh ra đời của phong trào văn hóa phục hưng
Văn hoá Tây Âu thế kỉ V - X dựa trên nền tảng nền kinh tế tự cung tự cấp, sự giao lưu trao đổi rất hạn chế, văn hoá vì vậy cũng phát triển không đáng kể.
Tới thế kỉ XIV, với sự phát triển kinh tế công thương ở các thành thị, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dần dần hình thành và ngày càng lớn mạnh. Các nhà tư tưởng của giai cấp tư sản không còn chịu chấp nhận những giáo lí phong kiến lỗi thời, họ vận động khôi phục lại sự huy hoàng của văn hoá Tây Âu thời cổ đại. Họ tìm thấy trong nền văn hoá cổ đại những yếu tố phù hợp với mình, có lợi cho mình để đấu tranh chống lại những trói buộc của nền văn hoá trung cổ .
Phong trào Văn hoá Phục hưng xuất hiện đầu tiên ở Ý, vì ở đây thế kỉ XIV đã xuất hiện các thành thị tự do như những quốc gia nhỏ. Quan hệ sản xuất tư bản đã chiếm địa vị chi phối đời sống văn hoá. Ý lại là trung tâm của đế quốc Rôma cổ đại, vì vậy ở đây còn giữ lại nhiều di sản văn hoá cổ đại của Hy Lạp - Rôma. Hơn ai hết, các nhà văn hoá Ý có điều kiện khôi phục lại nền văn hoá trước tiên khi có điều kiện. Từ Ý, phong trào lan sang Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Đức...
Tầng lớp giàu có ở các thành thị muốn thể hiện sự giàu sang của mình qua các dinh thự và các tác phẩm nghệ thuật, điều đó cũng tạo điều kiện cho các nhà văn hoá thể hiện tài năng.
2. Ảnh hưởng của phong trào văn hóa phục hưng.
Là một phong trào cách mạng về tư tưởng và văn hóa, phong trào văn hóa phục hưng đã có ảnh hưởng rất lớn đối với Tây Âu cũng như với toàn thế giới.
a) Bằng tinh thần đấu tranh dũng cảm bất chấp lò thiêu và ngục tối của tòa án tôn giáo, các chiến sĩ trên mặt trân văn hóa thời phục hưng đã đánh bại hệ tư tưởng lỗi thời của phong kiến và giáo hội Thiên chúa, do đó đã giải phóng ư tưởng tình cảm con người khỏi sự kìm hãm và trói buộc của giáo hội. Từ đó chủ nghĩa nhân văn với các nội dung nhân quyền, nhân tính, cá tính, ngày càng giữ vai trò chi phối không những về văn học nghệ thuật mà trong cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
b) Sau một nghìn năm chìm đắm, phong trào văn hóa phục hưng là một bước tiến diệu kỳ trong lịch sử văn minh ở Tây Âu. Các nhà văn nghệ sĩ, các nhà khoa học, triết học đã đóng góp trí tuệ và tài năng tuyệt vời của mình vào phong trào văn hóa đó bằng những tác phẩm và công trình bất hủ. Không những thế phong trào văn hóa phục hưng còn làm cơ sở và mở đương cho sự phát triển của văn hóa Tây Âu trong hững thế kỷ tiếp sau.
Câu 15:Quá trình cải cách tôn giáo và sự hình thành của đạo tin Lành ở Tây Âu thời trung đại
1. Hoàn cảnh lịch sử.
Thời kì trung đại, giáo hội Thiên chúa là một thế lực thống trị về mặt tư tưởng đầy quyền uy. Giáo hội còn được sự ủng hộ của các lãnh chúa phong kiến. Sang thế kỉ XVI, giai cấp tư sản muốn loại bỏ những điều trong giáo lí không phù hợp với cuộc sống kinh doanh của mình, họ muốn những giáo lí phải phù hợp với trào lưu kinh doanh và lối sống của những người giàu có mới nổi lên. Đó là nguyên nhân sâu xa làm bùng nổ ra phong trào cải cách tôn giáo ở Tây Âu thế kỉ XVI.
2. Quá trình cải cách tôn giáo và sự ra đời của đạo Tin lành
Đầu thế kỉ XVI, phong trào cải cách tôn giáo diễn ra ở ba nơi: Đức, Thuỵ Sĩ và Anh.
a) Cải cách tôn giáo ở Đức: Người khởi xướng ra phong trào cải cách tôn giáo ở Đức là Martin Luther ( 1483 - 1546 ), ông là con một thợ mỏ nghèo ở Thirighen được học trở thành luật sư. Năm 1517, ông đã viết “Luận văn 95 điều” dán trước cửa nhà thờ của trường đại học vitenbec tố cáo việc mua bán thẻ miễn tội hồi đó. Trong “Luận văn 95 điều” ông cho rằng việc mua bán thẻ miễn tội là giả dối, chỉ làm lợi cho những người lợi dụng nó. Ông cho rằng chỉ cần lòng tin vào Đức Chúa là sẽ được cứu vớt, ngay cả những nghi lễ phức tạp, tốn kém cũng không cần thiết.
Phong trào đòi cải cách tôn giáo ở Đức đã diễn ra rất quyết liệt. Rất nhiều người nông dân đã ủng hộ những tư tưởng của Martin Luther và xảy ra xung đột với giáo hội. Đến năm 1555, những tư tưởng của Luther đã được công nhận. Tôn giáo cải cách của Luther từ Đức đã lan sang nhiều nước Châu Âu khác.
b) Cải cách tôn giáo ở Thuỵ Sĩ: Đại biểu cho phong trào cải cách tôn giáo ở Thuỵ Sĩ là Can Vanh ( Jean Calvin). Năm 1536 Calvin cho xuất bản cuốn “Thiết chế Cơ Đốc”. Trong tác phẩm đó, ông thừa nhận thượng đế và thuyết tam vị nhất thể nhưng chỉ chấp nhận có kinh Phúc âm. Ông phê phán việc tu hành khổ hạnh và cho rằng cái quan trọng nhất là lòng tin. Ông cũng chủ trương khuyến khích việc làm giàu. Calvin chủ trương giảm bớt những nghi lễ phiền phức, tốn kém.
Điểm quan trọng của thuyết Calvin là thuyết định mệnh. Ông cho rằng số phận con người do Chúa Trời đã định trước, việc bỏ ra một ít tiền mua thẻ miễn tội không giải quyết được gì. Như vậy là ông chống lại việc bán thẻ miễn tội, cho đó chỉ là một trò lừa bịp.
Cải cách tôn giáo ở Thuỵ Sĩ đã được đông đảo mọi người ủng hộ. Giơnevơ ( Genève) trở thành trung tâm phong trào cải cách tôn giáo ở Tây Âu.
c) Cải cách tôn giáo ở Anh: Từ đầu thế kỉ XVI, kinh tế tư bản đã phát triển khá mạnh ở Anh. Giai cấp tư sản lớn mạnh muốn có một tôn giáo mới phù hợp với cuộc sống và công việc kinh doanh của họ.
Lúc đó nhà thờ ở Anh còn chiếm khá nhiều ruộng đất. Vua Anh cũng muốn lấy lại một phần ruộng đất của nhà thờ và loại bỏ ảnh hưởng của giáo hội Rôma đối với vương quyền.
Nhân việc Giáo hoàng phản đối việc bỏ vợ của vua Anh lúc đó là Henri VIII, Henri VIII đã ban “Sắc luật về quyền tối cao” vào năm 1534, tuyên bố cắt đứt quan hệ với giáo hội Rôma và thành lập một giáo hội riêng gọi là Anh giáo.
Anh giáo do vua Anh làm giáo chủ, nhưng mọi giáo lí, nghi lễ, phẩm hàm thì vẫn giống như đạo Thiên Chúa. Các giáo phẩm thì do vua Anh bổ nhiệm, mọi ruộng đất của giáo hội Rôma bị chính quyền tịch thu. Anh giáo như vậy chưa đáp ứng được yêu cầu của giai cấp tư sản. Tư sản Anh cần có cải cách triệt để hơn, điều đó đã dẫn tới Thanh giáo ( tôn giáo trong sạch). Thanh giáo xoá bỏ hết tàn dư của đạo Thiên Chúa, đơn giản hoá các nghi lễ, cắt đứt quan hệ với Anh giáo. Họ thành lập một hội đồng riêng, cầm đầu là các trưởng lão do các tín đồ bầu ra.
Như vậy thế kỉ XVI ở Tây Âu có nhiều giáo phái mới đã ra đời. Các giáo phái này ở các nước khác nhau, giáo lí cụ thể có điểm không giống nhau nhưng đều giống nhau một điểm là đơn giản hoá các nghi lễ, cắt đứt quan hệ với Giáo hoàng và toà thánh Rôma. Họ chỉ tin vào kinh Phúc âm. Chữ Phúc âm có nghĩa là tin mừng, tin lành, nên sau này người ta gọi tôn giáo mới là đạo Tin lành.
Câu 16:Quá trình hình thành và đặc điểm của chế độ phong kiến Tây Âu, phân tích, so sánh những đặc điểm chủ yếu của chế độ phong kiến Phương Đông – Phương Tây
1. Quá trình hình thành và đặc điểm của chế độ phong kiến Tây Âu
- Xã hội Hy Lạp, La Mã là xã hội chiếm hữu nô lệ. Năm 476 đế quốc Tây La Mã diệt vong. Sự kiến đó đánh dấu chế độ chiếm hữu nô lệ kết thúc, từ đó, các vương quốc mới thành lập trên đất đai của Tây La Mã không tiếp tục duy trì chế độ chiếm hữu nô lệ mà đi vào con đường phong kiến hóa
- Chế độ phong kiến là gì?. Đó là một hình thái kinh tế xã hội trong đó có hai giai cấp cơ bản là giai cấp địa chủ phong kiến và giai cấp nông dân. Giai cấp địa chủ phong kiến chiếm hầu hết ruộng đất trong xã hội , còn giai cấp nông dân thì bị mất ruộng đất nên phải cày cấy trên ruộn đất của địa chủ, do đó bị giai cấp địa chủ bóc lột bằng địa tô và các hình thức cưỡng bức siêu kinh tế khác.
- Ở Tây Âu, quá trình phong kiến hóa ở vương quốc Phrăng diễn ra tiêu biểu nhất
+ Trong quá trình chinh phục vua Phrăng đã đem những vùng đất rộng lớn phong cho những người than cận của mình lập thành những lãnh địa. Đồng thời phong cho họ các tước hiệu quý tộc. Các lãnh địa và các tước hiệu đều được truyền cho con cháu. Như vậy, chính sách phân phong ruộng đất của vương quốc Phrăng đã tạo nên một giai cấp mới là giai cấp lãnh chúa phong kiến, đòng thời cũng là giai cấp quý tộc
+ Xuất hiện đồng tời với giai cấp lãnh chúa phong kiến là giai cấp nông nô. Trừ một bộ phận nhỏ là do nô lệ biến thành, còn phần lớn nông nô vốn là nông dân tự do có ruộng đất riêng. Nhưng do việc chiếm đoạt ruộng đất của lãnh chúa phong kiến, họ không còn ruộng đất và phải lệ thuộc vào cac lãnh chúa, nộp địa tô cùng với nhiều nghĩa vụ khác.
2. Phân biệt những đặc điểm của phong kiến Tây Âu với phong kiến phương đông
* Phân biệt
Phong kiến phương Đông:
- Chính trị: Vua là ng nắm quyền lực tuyệt đối, có quyền ra mọi quyết định liên quan đến đất nc.
- Kinh tế: Ít đổi mới, sản xuất khép kín, ko giao du với nc ngoài -> trình độ kinh tế lạc hậu
- xã hội: Chịu ảnh hưởng mạnh của tư tưởng Lão-Trang, xã hội có tôn ti trật tự, gia đình gắn bó nhiều đời.
Phong kiến phương Tây:
- Chính trị: Vua ko phải là ng có quyền lực tuyệt đối, mọi việc phải thông qua sự đồng ý của Quốc Hội
- Kinh tế : Liên tục đổi mới, học hỏi lẫn nhau nên kinh tế ko ngừng phát triển
- Xã hội: Gia đình thường chỉ có 2 thế hệ, giữa các thế hệ luôn có sự xa cách, mang tư tưởng tự do phóng khoáng
* So sánh: Tại phương Tây, đặc điểm cơ bản của chế độ phong kiến là kinh tế lãnh địa, giai cấp lãnh chúa và nông nô, hệ thống đẳng cấp dựa trên quan hệ lãnh chúa - chư hầu, tình trạng cát cứ kéo dài.
Tại phương Đông, kinh tế lãnh địa và quan hệ lãnh chúa - nông nô không phát triển, chế độ quân chủ tập quyền ra đời sớm và tồn tại lâu dài, bên cạnh sở hữu tư nhân còn có sở hữu nhà nước về ruộng đất, kinh tế địa chủ với quan hệ địa chủ - tá điền chiếm ưu thế.
Câu 17:Cách mạng công nghiệp và những thành tựu cơ bản của cuộc cách mạng đó
1. Điều kiện dẫn tới cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh
a) Điều kiện tự nhiên.
- Anh có nhiều mỏ than, sắt và các mỏ này lại nằm gần nhau, điều đó rất thuận lợi về mặt kinh tế khi khởi đầu cuộc cách mạng công nghiệp.
- Về nguyên liệu, Anh có thuận lợi là nguồn lông cừu trong nước và bông nhập từ Mĩ, đó là những nguyên liệu cần thiết cho ngành dệt.
- Các dòng sông ở Anh tuy không dài nhưng sức chảy khá mạnh, đủ để chạy các máy vận hành bằng sức nước. Hải cảng Anh thuận lợi để đưa hàng hoá đi khắp
b) Điều kiện xã hội.
- Giai cấp quí tộc Anh sớm tham gia vào việc kinh doanh và họ trở thành tầng lớp quí tộc mới, có quyền lợi gắn liền với tư sản, có cách nhìn của tư sản.
- Nhu cầu về lông cừu đã dẫn tới phong trào đuổi những người nông dân ra khỏi ruộng đất để các nhà quí tộc biến đất đai đó thành đồng cỏ nuôi cừu. Lực lượng nông dân bị dồn đuổi ra khỏi ruộng đất đã cung cấp một lượng lớn lao động cho các công trường thủ công ở các thành thị.
2. Những thành tựu cơ bản của cuộc cách mạng công nghiệp
- Năm 1733 John Kay đã phát minh ra “thoi bay”. Phát minh này đã làm người thợ dệt không phải lao thoi bằng tay và năng suất lao động lại tăng gấp đôi.
- Năm 1765 Giêm Hagrivơ ( James Hagreaves ) đã chế được chiếc xa kéo sợi kéo được 8 cọc sợi một lúc. Ông lấy tên con mình là Gienny để đặt cho máy đó.
- Năm 1769, Akrai ( Richard Arkrwight ) đã cải tiến việc kéo sợi không phải bằng tay mà bằng súc vật, sau này còn được kéo bằng sức nước.
- Năm 1785, phát minh quan trọng trong ngành dệt là máy dệt vải của linh mục Étmôn Cacrai (Edmund Cartwright). Máy này đã tăng năng suất dệt lên tới 40 lần.
- Phát minh trong ngành dệt cũng tác động sang các ngành khác. Lúc bấy giờ, các nhà máy dệt đều phải đặt gần sông để lợi dụng sức nước chảy, điều đó bất tiện rất nhiều mặt. Năm 1784, Giêm Oát (James Watt) phụ tá thí nghiệm của một trường đại học đã phát minh ra máy hơi nước. Nhờ phát minh này, nhà máy dệt có thể đặt bất cứ nơi nào. Không những thế phát minh này còn có thể coi là mốc mở đầu quá trình cơ giới hoá.
- Ngành luyện kim cũng có những bước tiến lớn. Năm 1784 Henry Cort đã tìm ra cách luyện sắt “puddling”. Mặc dù phương pháp của Henry Cort đã luyện được sắt có chất lượng hơn nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu về độ bền của máy móc. Năm 1885, Henry Bessemer đã phát minh ra lò cao có khả năng luyện gang lỏng thành thép. Phát minh này đã đáp ứng được về yêu cầu cao về số lượng và chất lượng thép hồi đó.
- Cách mạng cũng diễn ra trong ngành giao thông vận tải. Năm 1804, chiếc đầu máy xe lửa đầu tiên chạy bằng hơi nước đã ra đời. Đến năm 1829, vận tốc xe lửa đã lên tới 14 dặm/giờ. Thành công này đã làm bùng nổ hệ thống đường sắt ở Châu Âu và Mĩ.
- Năm 1807, Phơntơn (Robert Fulton) đã chế ra tàu thuỷ chạy bằng hơi nước thay thế cho những mái chèo hay những cánh buồm.
- Nhiều khu công nghiệp xuất hiện, dân tập trung ra các thành thị ngày một nhiều dẫn tới quá trình đô thị hoá thời cận đại. Nhiều đô thị với dân số trên 1 triệu người dần hình thành.
- Giai cấp vô sản cũng ngày càng phát triển về số lượng. Với điều kiện sống cực khổ lúc đó, mỗi ngày lại phải làm việc từ 12 đến 15 giờ nên những cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản đã sớm nổ ra.
- Năm 1811 - 1812, ở Anh đã nổ ra phong trào đập phá máy móc. Đó là một biểu hiện đấu tranh bộc phát.
- Bãi công là một vũ khí đấu tranh phổ biến của giai cấp vô sản. Nhiều cuộc bãi công cũng đã nổ ra. Ở Anh, 1836 - 1848 còn nổ ra phong trào Hiến chương.
- Quyết liệt hơn, ở Pháp, Đức còn nổ ra những cuộc khởi nghĩa. Năm 1831 - 1834 tại Lion (Pháp) và Sơlêdin (Đức) đã nổ ra những cuộc khởi nghĩa. Những cuộc đấu tranh này chứng tỏ giai cấp vô sản đang trở thành lực lượng chính trị độc lập, đòi hỏi thay đổi sự thống trị của giai cấp tư sản.
Câu 18:Những thành tựu cơ bản của văn minh thế giới nửa thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI
- Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã đạt được những thành tựu kì diệu trong mọi ngành khoa học cơ bản và trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, rõ nét nhất là trong các ngành điện tử-tin học, năng lượng mới, vật liệu mới, công nghệ sinh học, kĩ thuật lade, khoa học vũ trụ.
- Máy tính và rôbôt là những sản phẩm tiêu biểu của công nghệ điện tử-tin học. Từ những chiếc máy vi tính (compute) đầu tiên ra đời vào năm 1946 đến nay, máy tính đã trải qua bốn thế hệ. Từ những chiếc máy tính điện tử đầu tiên sử dụng bóng đèn điện tử chân không, rồi chất bán dẫn, vi mạch (mạch tích hợp IC - Integrated Circuit), vi mạch với độ tích hợp cao. Từ máy tính điện tử dẫn tới sự kết nối Internet, tạo ra mạng thông tin toàn cầu với khả năng trao đổi thông tin cực nhanh, giá rẻ.
- Đội ngũ rôbôt công nghiệp ngày càng đông đảo, thông minh hơn và lĩnh vực tham gia hoạt động đang ngày càng mở rộng.
- Nhiều loại vật liệu mới ra đời trong hoàn cảnh vật liệu thiên nhiên ngày càng vơi cạn dần. Những loại vật liệu mới này còn có những tính năng hơn hẳn vật liệu tự nhiên như siêu bền, siêu cứng, siêu nhẹ...Tên các loại vật liệu mới như composit, polyme, silic, sợi cáp quang... ngày càng trở nên phổ biến. Nhiều loại năng lượng mới đã được con người sử dụng để biến thành điện năng như năng lượng nguyên tử, năng lượng Mặt Trời, năng lượng gió...
- Tia lade (laser) mới được phát minh ra từ những năm 60 của thế kỉ XX nhưng đến nay đã được áp dụng trong nhiều lĩnh vực, từ quân sự, thiên văn, y học, công nghệ in, thông tin liên lạc...
- Công nghệ sinh học đã đạt được nhiều thành tựu đáng kinh ngạc, thậm chí đáng sợ. Công nghệ sinh học tập trung vào bốn lĩnh vực : công nghệ gien, công nghệ tế bào, công nghệ vi sinh, công nghệ enzim. Nhờ công nghệ sinh học, người ta đã tạo ra nhiều giống cây, con mới với những đặc tính ưu điểm khác hẳn các giống trong tự nhiên; nhiều loại dược phẩm mới ra đời, nhiều loại chất xúc tác mới xuất hiện...
- Trong nghiên cứu vũ trụ, con người đã tiến những bước dài mà đi đầu là hai nước Liên Xô và Mĩ. Các tàu vũ trụ của Liên Xô và Mĩ đã đi thăm dò những hành tinh xa xôi ngoài Trái Đất. Liên Xô, Mĩ và giờ đây đang thêm nhiều nước khác đã phóng các vệ tinh nhân tạo đáp ứng nhu cầu truyền hình, thông tin toàn cầu, điều tra tài nguyên, dự báo thời tiết, mạng định vị qua vệ tinh...
Câu 19
Điều kiện hình thành những thành tựu cơ bản của nền văn minh công nghiệp, Nền văn minh công nghiệp đã có đóng góp gì cho sự phát triển chung của nhân loại và công cuộc CNH – HĐH ở Việt Nam hiện nay
1. Điều kiện hình thành những thành tựu cơ bản của nền văn minh công nghiệp.
Câu 20:Kể tên nền văn minh trên thế giới mà A/c yêu thích, cơ sở hình thành của nền văn minh tiêu biểu.
Nền văn minh Ai cập, Lưỡng Hà, Arập, Trung quốc,….
Cơ sở hình thành của nền văn minh TRung Quốc
Lãnh thổ Trung Quốc ngày nay rộng mênh mông nhưng Trung Quốc thời cổ đại nhỏ hơn bây giờ nhiều. Địa hình Trung Quốc đa dạng, phía Tây có nhiều núi và cao nguyên, khí hậu khô hanh, phía đông có các bình nguyên châu thổ phì nhiêu, thuận lợi cho việc làm nông nghiệp.
Trong hàng ngàn con sông lớn nhỏ ở Trung Quốc, có hai con sông quan trọng nhất là Hoàng Hà và Trường Giang (Dương Tử). Hai con sông này đều chảy theo hướng tây-đông và hàng năm đem phù sa về bồi đắp cho những cánh đồng ở phía đông Trung Quốc.
Trung Quốc gồm nhiều dân tộc nhưng đông nhất là người Hoa-Hạ. Người Hoa ngày nay tự cho tổ tiên họ gổc sinh sống ở ven núi Hoa thuộc tỉnh Thiểm Tây và sông Hạ thuộc tỉnh Hồ Bắc ngày nay.(Dân núi Hoa sông Hạ). Trong gần 100 dân tộc hiện sinh sống trên đất Trung Quốc ngày nay, có 5 dân tộc đông người nhất là Hán, Mãn, Mông, Hồi, Tạng.
Câu 21:Những nét chính trong tư tưởng của nhà khai sang về vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền từ Tk XVI – XVIII. Việt Nam đã vận dụng tư tưởng của các nhà khai sang ntn trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền
1. Khái niệm và đặc trưng của nhà nước pháp quyền
Nhà nước pháp quyền (NNPQ)là một phạm trù thuộc khoa học chính trị - pháp lý, xuất hiện khá sớm trong lịch sử tư tưởng nhân loại, bắt nguồn từ tư tưởng về nguyên tắc cai trị bằng luật pháp (rule by law) hơn là nguyên tắc cai trị bằng quyền lực tuyệt đối của nhà vua hay nhà độc tài (rule by man). Mặc dù ý niệm về “Nhà nước pháp quyền” (rule of law) được các nhà nhà triết học Hy Lạp ít nhiều đã đề cập, nhưng phải đến thời kỳ Phục hưng và Khai sáng châu Âu, khái niệm này mới được thực sự luận bàn và phát triển và làm tiền đề cho sự thịnh hành ở thế kỷ XX trở đi trên quy mô toàn cầu.
Nhà nước pháp quyền, hiểu một cách cơ bản nhất là một chế độ xã hội và một chính thể nhà nước đặt pháp luật là nguyên tắc tối thượng: không có ai ở trên luật hay ngoài luật, mà mọi người phải tuân theo pháp luật, bất kể là vua, tổng thống, thủ tướng hay người dân thường.
Toàn bộ tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, các nhánh quyền lực của nhà nước (lập pháp, hành pháp và tư pháp) nếu được thiết kế dựa trên nguyên tắc pháp quyền(rule of law) sẽ là một tiền đề quan trọng nhất cho các quyền và tự do của công dân được bảo đảm và thực thi. Nguyên tắc pháp quyền hiểu theo nghĩa rộng bao trùm toàn bộ các nguyên tắc nền tảng làm tiền đề cho việc tổ chức, hoạt động, giám sát việc thực thi quyền lực nhà nước, tôn trọng và bảo đảm các quyền con người. Như vậy, nguyên tắc pháp quyền không chỉ là nguyên tắc đòi hỏi việc quản lý, điều hành (hay cai trị) xã hội ấy phải bằng luật pháp, mà điều quan trọng hơn là toàn bộ tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước ấy phải chịu sự điều chỉnh và giám sát của luật pháp. Hơn nữa, luật pháp ấy phải là thể hiện được ý chí của đa số nhân dân. Nghĩa là các nguyên tắc pháp quyền ấy phải là sự lựa chọn và xác lập bằng các cơ chế thể hiện ý chí trực tiếp hoặc đại diện của nhân dân. Theo ý nghĩa ấy, nguyên tắc pháp quyền (rule of law) đồng nhất với chế độ pháp quyền hay nhà nước pháp quyền (law-governed state).
Liên hợp quốc và hệ thống pháp luật quốc tế ngày càng hoàn thiện, điều chỉnh các quy tắc ứng xử không chỉ giữa các công dân với nhà nước mà toàn thể cộng đồng nhân loại, các quan niệm về NNPQ ngày càng được phổ biến rộng rãi và trở thành một trong những tiền đề quan trọng nhất của cộng đồng quốc tế trong quá trình xây dựng xã hội hòa bình, tiến bộ, dân chủ và văn minh(1).
Báo cáo của Tổng Thư ký Liên hợp quốc về nhà nước pháp quyền và tư pháp chuyển đổi trong các xã hội xung đột và hậu xung đột (xuất bản năm 2004), đã xác định: “Đối với Liên hợp quốc, pháp quyền là một nguyên tắc của quản trị mà ở đó tất cả các cá nhân, cơ quan và các tổ chức, công và tư, bao gồm chính nhà nước, là phải giải trình trước luật pháp được ban hành một cách công khai, được thực thi một cách bình đẳng và được xét xử một cách độc lập, và phù hợp với các quy phạm và tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế. Cũng như nó đòi hỏi về các biện pháp đối với việc đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc về tính tối cao của pháp luật, sự bình đẳng trước pháp luật, trách nhiệm giải trình trước pháp luật, tính công bằng trong việc áp dụng pháp luật, phân chia quyền lực, tham gia vào việc ra quyết định, đảm bảo pháp lý, tránh sự tùy tiện và sự minh bạch về thủ tục và pháp lý”(2).
Quan điểm được thừa nhận rộng rãi trong cộng đồng quốc tế hiện nay cho rằng có ba thước đo của nguyên tắc pháp quyền và NNPQ đó là: Quyền con người (đánh dấu bằng các quyền con người toàn cầu được thừa nhận rộng rãi trong Tuyên ngôn Thế giới về nhân quyền 1948, các công ước quốc tế về quyền con người của Liên hợp quốc và công ước nhân quyền khu vực); hình thức/thể chế (bao gồm: quy định bằng luật, mang tính phổ quát và bình đẳng, áp dụng như nhau, có thể tiếp cận được công khai, đồng bộ, tương thích, dễ hiểu, mang tính tuân thủ, tòa án công tâm, trình tự, thủ tục công bằng, sự thẩm tra, giám sát của tư pháp đối với hành pháp và tiếp cận công lý); chế độ chính trị theo đó đề cao tính tối cao của Hiến pháp, sự cân bằng và đối trọng quyền lực, các cơ quan được bầu một cách dân chủ và phân chia quyền lực(3).
Sự phát triển lý luận về nhà nước pháp quyền
Thời kỳ Phục hưng và Khai sáng châu Âu là thời kỳ phát triển mạnh mẽ của các trào lưu tư tưởng về đề cao vai trò của pháp luật trong việc xác lập các nguyên tắc cho tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, cho việc tôn trọng và bảo đảm các quyền và tự do cơ bản của công dân.
Nhà nước pháp quyền theo quan niệm của các nhà tư tưởng Phục Hưng và Khai Sáng, đặc biệt là Môngtétxkiơ, đó là sự phân chia và chế ước quyền lực nhà nước thành các nhánh (lập pháp, hành pháp và tư pháp) rạch ròi, sao cho pháp luật được đề cao và thực thi hiệu quả, các quyền và tự do cơ bản của công dân được bảo đảm. Nhà nước pháp quyền là nhà nước nơi những người được ủy giao trọng trách quản lý và điều hành xã hội, hay nói chung là những người được giao cho việc cai trị, phải thông qua cơ chế phổ thông đầu phiếu, do người dân bầu ra, dù bằng hình thức bầu trực tiếp hay qua hình thức đại diện. Montesquieu đặc biệt nhấn mạnh đến sự phân chia giữa các nhánh quyền lực nhà nước và về mối quan hệ giữa cơ quan lập pháp (nghị viện/quốc hội), với cơ quan hành pháp (chính phủ) và cơ quan tư pháp (tòa án) để hạn chế sự tùy tiện hay vượt quá giới hạn của bất cứ quyền lực nào, nhất là quyền hành pháp. NNPQ được thực hiện thông qua mô hình dân chủ điển hình nhất là dân chủ nghị viện, theo đó quyền lập pháp (nghị viện) hạn chế quyền lực của phía hành pháp (chính phủ). Như vậy chính phủ không thể tự do hành động theo sở thích của mình và phải luôn có được sự hậu thuẫn của nghị viện, nơi thể hiện ý chí và nguyện vọng của dân chúng. Tương tự như vậy, quyền tư pháp cho phép tạo ra sự đối trọng với một số quyết định của chính phủ, đồng thời giúp công dân bảo vệ được các quyền và tự do trong trường hợp các quyền ấy bị tùy tiện tước đi bởi cơ quan hành pháp.
Trên thế giới hiện nay có ba trường phái chính hay quan niệm khác nhau về NNPQ đại diện cho ba truyền thống tư tưởng triết học - chính trị và tư duy pháp lý châu Âu: 1) Rechtsstaat (Đức); 2) Des L’Etat de Droit (Pháp); 3) Rule of Law (Anh).
Quan niệm NNPQ của truyền thống Đức (Rechtsstaat) xem NNPQ là một nhà nước trong đó các quy phạm pháp luật được sắp xếp có trật tự sao cho quyền lực phải chịu sự giới hạn. Theo đó, mỗi quy phạm có được hiệu lực từ sự tuân thủ các quy phạm cao hơn. Sự tồn tại một trật tự có thứ bậc các quy phạm tạo nên một trong những đảm bảo quan trọng bậc nhất của nhà nước pháp quyền. Trong khuôn mẫu đó, thẩm quyền của các cơ quan nhà nước phải được xác định một cách rõ ràng và các quy phạm mà những cơ quan này tạo ra chỉ có hiệu lực với điều kiện tuân thủ toàn bộ các quy phạm có hiệu lực cao hơn. Cao nhất của hệ thống các quy phạm pháp luật là hiến pháp.
Trong một NNPQ, quyền lực của nhà nước bị hạn chế để bảo vệ công dân khỏi việc thực thi quyền lực một cách tùy tiện, công dân được hưởng các quyền tự do dân sự một cách hợp pháp và họ có thể sử dụng hệ thống tòa án để bảo vệ các quyền ấy. Một đất nước không thể là một nền dân chủ tự do nếu trước hết không phải là một NNPQ.
NNPQ theo quan điểm của châu Âu lục địa (continental law), dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa thực chứng pháp luật (positive law) và theo quan điểm các nhà tư tưởng Đức, theo đó pháp luật ra đời gắn liền với nhà nước, với sự hình thành và phát triển của nhà nước, nhà nước và pháp luật không thể tách rời. Chính vì vậy, khái niệm NNPQ được cấu thành từ hai từ “reich” (luật, pháp quyền) và “state” (nhà nước).
Quan điểm NNPQ theo truyền thống Anglo-American (Anh - Mỹ) (rule of law). Quyền lực nhà nước về bản chất là quyền lực của nhân dân; quyền lực của nhân dân là cơ sở, nguồn gốc của quyền lực nhà nước. Trong quan hệ với nhân dân, nhà nước không có quyền mà chỉ thực hiện sự uỷ quyền của nhân dân mà thôi; công dân trao cho nhà nước các quyền lực thông qua một khế ước xã hội và hoàn toàn có quyền rút lại khế ước ấy trong chừng mực nhà nước tước đi các quyền tự nhiên thiêng liêng của công dân. Vai trò của pháp luật tự nhiên là xác lập các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của mọi quyền lực nhà nước để bảo vệ các quyền tự nhiên cơ bản của con người. Vì vậy, NNPQ là nhà nước được hình thành bằng luật tự nhiên và có nhiệm vụ tối thượng là bảo vệ các quyền tự nhiên của tất cả mọi người.
Rule of Law là nguyên tắc mà ở đó tất cả mọi người và mọi thiết chế đều phải phục tùng và chịu trách nhiệm giải trình đối với luật pháp và được áp dụng, thực thi công bằng đối với họ.
Ba nguyên tắc cơ bản và trở thành phổ biến trong truyền thống NNPQ của Anh - Mỹ và thế giới ngày nay được Dicey đưa ra vào năm 1885, đó là : 1) Không ai có thể bị trừng phạt hoặc phải chịu đựng một hình phạt ngoại trừ một hành vi trái pháp luật được chứng minh tại tòa; 2) Không ai đứng trên pháp luật và mọi người đều bình đẳng trước pháp luật bất kể địa vị xã hội, kinh tế hay chính trị của họ; 3) Nguyên tắc pháp quyền bao gồm những kết quả của các quyết định tư pháp xác định các quyền của cá nhân(4). Những nguyên tắc cơ bản này đã trở thành tiêu chuẩn quốc tế trong hệ thống pháp luật quốc tế hiện đại, đặc biệt liên quan đến các chế độ bảo vệ và thúc đẩy quyền con người trên phạm vi toàn cầu.
Tiếp nối truyền thống tư duy chính trị - pháp lý dựa trên pháp luật tự nhiên (natural law) của John Locke, các nhà tư tưởng khai sáng Hoa Kỳ, như Thomas Paine, Thomas Jefferson, Madison và Abraham Lincoln,… đã đặc biệt đề cao vai trò của pháp luật, các nguyên tắc pháp quyền, nhất là tính tối cao của hiến pháp, sự phân chia quyền lực, ghi nhận và bảo đảm các quyền và tự do cơ bản của công dân,… Nguyên tắc pháp quyền, Rule of Law, trong tư duy chính trị - pháp lý Hoa Kỳ được xem là xương sống cho việc tổ chức, thiết kế và vận hành của nền dân chủ Hoa Kỳ.
2. Giá trị tham khảo cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam
Lý luận về NNPQ có những đặc trưng chung và có thể được áp dụng cho những mô hình phát triển xã hội khác nhau hay những đặc thù về trình độ phát triển, điều kiện văn hóa khác nhau. Đối với Việt Nam, trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN dựa trên một NNPQ XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, những giá trị chung, phổ biến này hoàn toàn phù hợp với Việt Nam. Đó là: Tính thượng tôn của pháp luật hay pháp luật đóng vai trò quan trọng trong điều chỉnh các quan hệ kinh tế - xã hội, đặc biệt là quan hệ kinh tế của một nền kinh tế thị trường;các quyền và tự do của công dân được tôn trọng và bảo đảm; tính minh bạch, công khai, trách nhiệm giải trình của nhà nước; quyền lực nhà nước, đặc biệt là quyền hành pháp, cần phải được kiểm soát, và tính độc lập của cơ quan tư pháp (nhất là sự độc lập của thẩm phán trong hoạt động xét xử).
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sớm đề cao và có những tư tưởng sâu sắc về NNPQ. Ngay từ năm 1919, trong bản Yêu sách gửi các nước Đồng Minh thắng trận tại Hội nghị Vécxây, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định “Bảy xin Hiến pháp ban hành. Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”. Những tư tưởng thấm đượm các nguyên tắc chung của NNPQ tiến bộ sau đó đã không ngừng được tái khẳng định, bổ sung và phát triển trong tư tưởng của Người cũng như được thể chế trong các quan điểm của Đảng, được hiến định và luật định, đặc biệt là trong Cương lĩnh năm 1930 của Đảng và Hiến pháp 1946 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Kế thừa và phát huy tư tưởng Hồ Chí Minh về NNPQ, Điều 2 Hiến pháp năm 2013 (có hiệu lực từ 1-1-2014) tiếp tục tái khẳng định các nguyên tắc pháp quyền và việc xây dựng NNPQ theo con đường XHCN: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.”(5) Mặc dù theo quan điểm nhà nước do nhân dân làm chủ, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất (Điều 2), NNPQ mà chúng ta đang xây dựng vẫn chứa đựng điểm chung, đó là có sự kiểm soát về mặt quyền lực nhà nước. Sự kiểm soát ấy được hiểu là giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Một điểm mới trong Hiến pháp 2013 đó là lần đầu tiên cơ quan chịu trách nhiệm thực hiện quyền tư pháp được hiến định rõ ràng và cụ thể: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” (Điều 102)(6). Việc bước đầu có sự phân công rạch ròi và hiến định nguyên tắc kiểm soát có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện NNPQ XHCN ở nước ta.
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam cũng mang đặc trưng cốt lõi của NNPQ nói chung, đó làcông nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân (Điều 3, Hiến pháp 2013). Tuy nhiên, việc thừa nhận và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân trong NNPQ XHCN Việt Nam đạt trình độ cao hơn. Về mặt chủ thể của các quyền con người là thuộc về tất cả mọi người, thuộc về nhân dân, và mục tiêu của sự phát triển đó là vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.
Ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946 cho đến bản Hiến pháp mới nhất (Hiến pháp năm 2013), nguyên tắc pháp quyền trong việc thừa nhận, tôn trọng và thực hiện quyền con người luôn được thể hiện rõ nét. Đây cũng là một trong những đặc trưng của bất cứ NNPQ nào trên thế giới. Điều 14 của Hiến pháp 2013 khẳng định:“1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” (Điều 14), và “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.” (Điều 14)(7).
Nhà nước pháp quyền có một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc quản lý, điều hành xã hội nói chung và nền kinh tế nói riêng, nhất là một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay. Nhà nước pháp quyền là một tiền đề quan trọng để thúc đẩy sự phát triển kinh tế thị trường, đồng thời để định hướng các quan hệ kinh tế thị trường hạn chế những tác động tiêu cực, phát huy những yếu tố tích cực như tính năng động, sáng tạo, tích cực của các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế, cũng như người dân. Chỉ có các nguyên tắc pháp quyền mới có thể giúp cho các quy luật kinh tế vận hành hiệu quả nhưng trên cơ sở hướng tới mục đích phục vụ lợi ích tối đa của đa số các tầng lớp nhân dân trong xã hội chứ không phải thiểu số giới chủ, giới doanh nhân và tầng lớp sở hữu tư liệu sản xuất và của cải xã hội. NNPQ cũng chính là một nhà nước định vị vào các giá trị phúc lợi xã hội, quan tâm đặc biệt đến việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của những người yếu thế (powerless), đặc biệt là người nghèo, và các nhóm dễ bị tổn thương.
Xu hướng xa rời định hướng XHCN cũng là một trong những thách thức vô cùng lớn mà nền kinh tế chuyển đổi ở Việt Nam đang phải đối mặt. NNPQ hơn bao giờ hết chính là một giải pháp hữu hiệu để điều chỉnh nguy cơ “chệch hướng” và những khuyết tật cố hữu của một nền kinh tế thị trường. Việc hoàn thiện một NNPQ phụ thuộc rất lớn vào quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp, đổi mới và tăng cường tính độc lập của cơ quan tư pháp, cải cách không ngừng nền hành chính theo hướng cởi mở, minh bạch và chịu trách nhiệm giải trình. Đồng thời, NNPQ được hình thành dựa trên nỗ lực, cam kết mạnh mẽ của đội ngũ lãnh đạo và quản lý nói riêng, cũng như cán bộ, công chức nói chung, với tính cách là chủ thể đóng vai trò quan trọng trong quá trình hoạch định, thực thi chính sách.
Nhà nước pháp quyền trong một nền kinh tế thị trường luôn có sự đề cao đặc biệt của nhà nước, lực lượng thị trường (các doanh nghiệp và các quan hệ kinh tế thị trường,...) và tổ chức xã hội dân sự. Trong đó, vai trò đặc biệt quan trọng của nhà nước đó là bằng công cụ pháp luật và thông qua pháp luật, điều tiết nền kinh tế, cân bằng mối quan hệ giữa lực lượng thị trường (vốn luôn có xu hướng lấy lợi nhuận làm đầu và lấy các quan hệ kinh tế chi phối toàn bộ các quan hệ khác và mọi mặt của đời sống xã hội) với các tổ chức xã hội và đoàn thể nhân dân (là cầu nối, người giám sát và bảo vệ trực tiếp các quyền và lợi ích chính đáng của mọi tầng lớp nhân dân). Các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội không chỉ góp phần hiệu quả vào việc giám sát quá trình thực thi chính sách, giảm tác động tiêu cực của các lực lượng thị trường, mà điều quan trọng đó chính là việc giúp tăng cường năng lực quản trị nhà nước đối với nền kinh tế thị trường, mà còn giúp trao quyền và tăng cường sự hưởng thụ và thực hiện các quyền cơ bản của công dân. Vì vậy, tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện NNPQ XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là một trong những tiền đề quan trọng của phát triển kinh tế - xã hội, chăm lo và bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Cần tăng cường năng lực thực thi và giám sát việc thực thi quá trình chính sách, cùng với việc tăng cường các cơ chế kiểm soát, giám sát quyền lực nhà nước hiệu quả (như Quốc hội, hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội…).
Trong một xã hội dựa trên kinh tế thị trường, xu hướng lạm quyền và vi hiến của cơ quan hành chính - nhà nước (trong việc thực thi quyền hành pháp) là rất rõ rệt. Vì vậy, NNPQ chỉ có thể được tổ chức và hoạt động theo chiều tích cực đối với hệ thống kinh tế thị trường và phát triển bền vững xã hội nếu như có các cơ chế tương đối độc lập giúp cho nó vận hành hiệu quả. Tăng cường thẩm quyền, năng lực và tính độc lập của các cơ quan tư pháp là một đòi hỏi vô cùng cấp thiết. Kinh nghiệm khu vực và quốc tế về tính hiệu quả của một số mô hình đặc trưng về NNPQ đề cao tính tối cao của Hiến pháp và tinh thần thượng tôn pháp luật của các cơ quan nhà nước và mỗi công dân, vai trò độc lập và tối cao của cơ quan tư pháp trong bảo vệ các nguyên tắc pháp quyền có ý nghĩa thiết thực trong việc xây dựng một mô hình NNPQ phù hợp với điều kiện văn hóa, lịch sử, chính trị,… của một nền kinh tế chuyển đổi ở Việt Nam hiện nay.
……………….
Học thuyết nhà nước pháp quyền: Một số vấn đề trong lịch sử hình thành và phát triển Tóm tắt: Nghiên cứu sơ bộ những vấn đề cơ bản trong lịch sử hình thành và phát triển của tư tưởng Nhà nước pháp quyền từ thời các triết gia Hy Lạp cổ đại cho đến nay, tác giả rút ra kết luận đó là di sản văn hoá pháp lý chung của toàn thể nhân loại, được thừa nhận rộng rãi trên toàn thế giới, chỉ có một thuật ngữ "Nhà nước pháp quyền" thống nhất với những nguyên tắc cơ bản đã được thừa nhận chung. Còn về mặt thực tiễn, xây dựng Nhà nước pháp quyền cho phù hợp với chế độ xã hội, các điều kiện kinh tế-xã hội, các đặc điểm lịch sử- truyền thống từng nước lại là vấn đề hoàn toàn khác, cần được tiếp tục nghiên cứu. Vừa qua, Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định rõ việc tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền (NNPQ) xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân với tính chất là công cụ bảo vệ một cách vững chắc các quyền và tự do của nhân dân. Do vậy, trong giai đoạn hiện nay trớc khoa học pháp lý Việt Nam có nhiệm vụ cấp bách và vô cùng quan trọng là: phải
tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa để làm sáng tỏ về mặt khoa học những vấn đề lý luận về NNPQ. Một trong những vấn đề đó là lịch sử hình thành và phát triển của NNPQ. Đã từ lâu trong khoa học pháp lý tồn tại một quan điểm phổ biến và được thừa nhận chung- trước khi bắt tay vào nghiên cứu bất kỳ một hiện tợng Nhà nước hay pháp luật nào, chúng ta cần phải xem xét lịch sử hình thành và phát triển của hiện tượng đó trong quá khứ ra sao, để từ đó phân tính thực trạng của nó trong hiện tại và dự đoán sự phát triển của nó trong tương lai. Bởi lẽ, theo V.I.Lênin thì trong khoa học xã hội, phơng pháp lịch sử là phương pháp nghiên cứu chắc chắn và đáng tin cậy nhất. Do đó, sẽ hoàn toàn lôgíc và có căn cứ là khi nghiên cứu việc xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam, thì vấn đề đầu tiên mà chúng ta cần phải xem xét là lịch sử hình thành và phát triển về mặt lý luận của NNPQ với tính chất là một học thuyết tiên tiến trong khoa học pháp lý. Tuy nhiên, do tính chất đa dạng, phức tạp và nhiều khía cạnh của những vấn đề khoa học còn đang được tranh luận xung quanh học thuyết về NNPQ (nh lịch sử, khái niệm, bản chất, v.v...), nên trong phạm vi một bài viết đăng trên Tạp chí khoa học, chúng tôi chỉ có thể đề cập đến những vấn đề nào mà theo quan điểm của chúng tôi là chủ yếu và quan trọng hơn cả. Trước hết, ở đây chúng ta cần khẳng định một chân lý: học thuyết về NNPQ, do bản chất tiến bộ, dân chủ và nhân đạo của nó nên đã được thừa nhận là di
sản pháp lý chung của toàn thể loài người. Vì vậy, về mặt lý luận, khi nói đến NNPQ "trong lịch sử", chúng ta phải chỉ rõ đó chính là "trong lịch sử các học thuyết chính trị-pháp luật", chứ không thể nói một cách đơn giản và chung chung là "trong lịch sử", vì như vậy là thiếu chính xác. Bởi lẽ, trong lịch sử (từ cổ đại đến cận đại), NNPQ chưa bao giờ tồn tại trên thực tế nh là một Nhà nước đúng với nghĩa của nó (có các cơ quan như cảnh sát, toà án, quân đội, v.v...) mà mới chỉ tồn tại như là một học thuyết chính trị - pháp luật (bao gồm hệ thống các tư tưởng, quan điểm, v.v...). Còn về mặt thực tiễn, trong thế kỷ XXI này (thời kỳ hiện đại), NNPQ đang là một thực tại trong thực tiễn quốc tế, hay chính xác hơn- là hiện thực sinh động ở các nước văn minh và phát triển cao trên thế giới. Việc nghiên cứu lịch sử các học thuyết chính trị và pháp luật trên thế giới1 đã cho phép khẳng định một cách xác đáng rằng: sự phôi thai các tư tưởng đầu tiên của nhân loại về NNPQ đã có cội nguồn lịch sử từ rất lâu đời. Chẳng hạn, ngay từ các thế kỷ IX-VI trớc công nguyên (TCN) các nhà tư tưởng của Hy Lạp cổ đại đã quan niệm là: sự khẳng định các nguyên tắc công bằng, pháp chế và một cuộc sống vĩnh hằng bao giờ cũng gắn liền với quyền năng của các thiên thần trên núi Ôlimpơ (đứng đầu là thần Zớt). Lúc bấy giờ, trong các trường ca của Hômer (thế kỷ VIII TCN), đặc biệt là hai trường ca nổi tiếng thế giới "Iliát" và "Ôđixê", thần Zớt được mô tả như một đấng tối cao ban phát công lý chung và trừng trị nghiêm khắc những kẻ gây nên bạo lực hoặc những kẻ phán xét bất công. Dần dần, những quan niệm của Hômer đã được
tiếp tục phát triển trong các sáng tác của "bảy nhà thông thái" ở Hy Lạp cổ đại (vào các thế kỷ VII-VI TCN)- Falex, Pittác, Perianđr, Biant, Kleôbul, Hilông, và nhất là Xôlông (683-559 TCN)- nhà lập pháp; nhà hoạt động Nhà nước, cải cách nổi tiếng của Aphin và được coi là người sáng lập ra nền dân chủ Hy Lạp cổ đại. Đồng thời, các quan điểm về pháp chế, pháp luật nh là những cơ sở tồn tại của Nhà nước mà cho đến nay vẫn còn có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc xây dựng các nền tảng chính trị pháp lý của NNPQ đã được đa ra trong các tác phẩm của bốn nhà tư tưởng nổi tiếng thời cổ đại- Xôcrat, Platôn, Arixtốt và Xixerôn mà chúng ta sẽ lần lợt xem xét dưới đây. - Xôcrat (469- 399 TCN) - triết gia, một trong những nhân vật nổi tiếng nhất của lịch sử tinh thần của nhân loại. Là người ủng hộ triệt để về nguyên tắc tư tưởng pháp chế. Ông cho rằng: công lý ở trong sự tuân thủ pháp luật hiện h ành; sự công minh và sự hợp pháp đều là một; nếu nh không tuân thủ thì cũng không thể có Nhà nước và trật tự pháp luật; nếu như các công dân của Nhà nước nào tuân thủ pháp luật thì Nhà nước đó sẽ vững mạnh và phồn vinh. - Platôn (427- 374 TCN) - học trò của Xôrcát, một trong những nhà tư tưởng vĩ đại nhất của thời sơ cổ, cũng nh trong toàn bộ lịch sử triết học, các học thuyết chính trị (với những tác phẩm nh "Nhà nước", "Pháp luật", "Nhà chính trị" v.v...). Các tư tưởng tiến bộ của ông từ thời cổ đại vẫn còn có ý nghĩa thực tiễn cho đến bây giờ nh: hoạt động xét xử là để bảo vệ pháp luật; Nhà nước sẽ ngừng tồn tại
nếu nh trong Nhà nước ấy, các toà án không được tổ chức một cách thoả đáng… Đặc biệt, luận điểm của ông: "Ta nhìn thấy sự diệt vong của Nhà nước, mà trong đó pháp luật không có sức mạnh và ở dưới quyền lực của ai đấy" đã được khẳng định xác đáng trên thực tế của thế kỷ XX bằng sự sụp đổ thảm hại của một loạt các Nhà nước cực quyền đủ các thể loại (phát xít, cảnh sát, quân sự, chuy ên chế, v.v...) kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945) đến nay. - Arixrốt (384-322 TCN) - "Nhà tư tưởng vĩ đại nhất của thời cổ đại", học trò của Platôn, người đã trực tiếp tiếp tục phát triển và làm sâu sắc hơn các quan điểm chính trị - pháp luật của thầy mình. Theo ông, yếu tố cấu thành cơ bản trong luật là sự phù hợp của tính đúng đắn về chính trị của nó với tính pháp quyền. Nếu không tuân theo pháp luật mà còn chà đạp lên pháp luật, nếu mưu toan thống trị bằng bạo lực dĩ nhiên là mâu thuẫn với tư tưởng pháp quyền. - Xixerôn (106-43 TCN) - nhà luật học, hoạt động nhà nước và hùng biện nổi tiếng, tác giả của một loạt các công trình khoa học nh "về Nhà nước", "về những đạo luật" và "về các nghĩa vụ". Ông đã đa ra nhiều quan điểm tiên tiến nh: người hoạt động trong các lĩnh vực Nhà nước cần phải sáng suốt, công minh, có khả năng hùng biện và hiểu biết những nguyên lý cơ bản của pháp luật mà nếu nh thiếu các kiến thức đó thì không ai có thể công minh được; các đạo luật do con người quy định phải phù hợp với tính công minh và quyền tự nhiên, vì sự phù hợp (hay không) ấy là tiêu chuẩn để đánh giá tính công minh (hay không) của chúng...
Đặc biệt là Xixêrôn đã nêu lên nguyên tắc có tính chất bắt buộc về sự tối cao của luật trong Nhà nước: "Tất cả mọi người đều phải ở dưới hiệu lực của pháp luật"4 mà hiện nay được xem là một trong những nguyên tắc cơ bản được thừa nhận chung của NNPQ. Nhưng có lẽ phải đến tận các thế kỷ XVII - XIX, sau những thắng lợi của các cuộc đấu tranh hàng thế kỷ với các chế độ phong kiến tàn bạo, chuyên chế, độc tài và vô pháp luật, thì các tư tưởng và quan điểm của nhân loại tiến bộ về NNPQ mới được tiếp tục phát triển và dần dần hình thành một cách rõ ràng và dứt khoát trong các học thuyết chính trị pháp luật. dưới đây chúng ta xem xét những nét chủ yếu trong các tư tưởng và quan điểm khoa học của bốn nhà lý luận lớn nhất về NNPQ giai đoạn này- J.Lốccơ, S.L.Môngtéxkiơ, I.Kant, và G.V. Hê ghen. - Jôn Lốccơ (1632-1704): nhà khoa học vĩ đại người Anh trong các lĩnh vực chính trị và pháp luật. Các tư tưởng về Nhà nước và pháp luật của ông được trình bày trong tác phẩm "Hai chuyên luận về Nhà nước" (1690). Theo ông, các quyền của con người (bao gồm tự do, bình đẳng và sở hữu) là tự nhiên và không thể bị tớc đoạt, Nhà nước được thành lập ra là để bảo vệ các quyền của con người, bảo vệ pháp luật và không được xâm phạm đến chúng. Từ đó, luận chứng cho sự cần thiết của pháp luật và pháp chế, ông cho rằng: ở đâu không có pháp luật thì ở đó cũng không có tự do, vì pháp luật là công cụ cơ bản quyết định việc giữ gìn và mở rộng tự do cá nhân, đồng thời bảo đảm cho cá nhân tránh khỏi sự tuỳ tiện và ý chí độc đoán của những người khác.
J. Lôccơ cho rằng: mối nguy hiểm chính của sự tuỳ tiện và xâm phạm từ phía quyền lực nhà nước đối với các quyền và tự do của con người và pháp luật xuất phát từ các đặc quyền của những người cầm quyền; vì thế, trong Nhà nước, tuyệt đối không một người nào được nắm toàn bộ quyền lực và tránh khỏi việc phục tùng pháp luật. Khẳng định chủ quyền của nhân dân nh là nền tảng bảo đảm cho sự tồn tại của Nhà nước, ông cho rằng: việc điều hành Nhà nước phải dựa trên các đạo luật do nhân dân tuyên bố và biết rõ về chúng; chủ quyền của nhân dân cao hơn, quan trọng hơn chủ quyền của Nhà nước do họ thành lập… Các quan điểm tiến bộ và nhân đạo của J.Lốccơ đã được sách báo chính trịph áp lý các thế kỷ XVIII-XIX ca ngợi là các tư tưởng về NNPQ. Đó chính là công lao to lớn nhất của J.Lốccơ đối với nhân loại, vì các quan điểm khoa học của ông sang thế kỷ XX không chỉ được tiếp tục phát triển và thể hiện trong Tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hợp Quốc ngày 10/12/1948 và một loạt các văn bản pháp luật quốc tế khác về các quyền con người, mà còn trở thành hiện thực ở tất cả các NNPQ trên thế giới (nhất là các quan điểm về chủ quyền của nhân dân, phân công quyền lực, bảo vệ các quyền và tự do của công dân). - Sáclơ Lui Môngtéxkiơ (1698-1755)– nhà luật học lỗi lạc, một trong những đại diện xuất sắc của trào lu khai sáng thế kỷ thứ XVIII ở Pháp, tác giả của công trình khoa học nổi tiếng "Về tinh thần của pháp luật" (1748). Ông đã khẳng định rất đúng rằng: nguyên tắc chủ yếu của chế độ chuyên chế là làm cho con người khiếp sợ, đó là Nhà nước của sự độc đoán và tuỳ tiện, bởi lẽ trong Nhà nước ấy không
bao giờ có pháp luật, còn nếu có đi chăng nữa thì không có ý nghĩa thực tế gì cả, vì cũng không có các chế định nào để bảo vệ pháp luật. Khi luận chứng cho các vấn đề nh: sự cần thiết của pháp chế và tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật, sự kìm hãm và đối trọng của ba nhánh quyền lực Nhà nước vì lợi ích chung của toàn xã hội và nhân dân (chứ không phải là của riêng giới cầm quyền, giai cấp hoặc tầng lớp xã hội nào), tầm quan trọng của việc bảo đảm tự do chính trị và an toàn của công dân tránh khỏi tình trạng vô pháp luật, cũng nh sự tuỳ tiện và lạm quyền từ phía các quan chức của bộ máy Nhà nước, S. Môngtéxkiơ đã viết rằng: nếu như quyền lập pháp và hành pháp nằm trong tay một người hay một cơ quan, cũng như khi quyền tư pháp không tách khỏi hai nhánh quyền lực kia thì sẽ không có tự do, còn nếu như quyền tư pháp hợp nhất với quyền hành pháp thì tòa án sẽ có khả năng trở thành kẻ đàn áp, và tất cả sẽ bị huỷ diệt nếu như quyền lực nằm trong tay một người hay một cơ quan hợp nhất cả ba quyền này. Như vậy, các tư tưởng và quan điểm khoa học của S. Môngtéxkiơ đã để lại cho nền văn minh của nhân loại một di sản pháp lý quý báu mà giá trị xã hội to lớn của nó vẫn còn nguyên vẹn cho đến ngày nay- lý luận về phân công (chứ không phải là phân chia) quyền lực. Với bản chất dân chủ và nhân đạo của nó, sự phân công quyền lực không chỉ một học thuyết chính trị - pháp lý tiên tiến, mà còn là một nguyên tắc cơ bản, trung tâm bắt buộc và quan trọng nhất được thừa nhận chung của các NNPQ trên thế giới.
- Immanuil Kant (1724-1804) - nhà triết học nổi tiếng người Đức với luận chứng về những cơ sở triết học cho học thuyết về NNPQ. Ông cho rằng: lý trí thực tế, hoặc ý chí tự do của mỗi cá nhân chính là nguồn gốc của các đạo luật có tính pháp quyền và đạo đức; pháp luật để bảo đảm các quan hệ văn minh giữa mọi người, Nhà nước là sự hợp nhất của nhiều người biết phục tùng các đạo luật có tính pháp quyền nhằm bảo vệ trật tự pháp luật và được xây dựng trên các nguyên tắc chủ quyền; bản thân Nhà nước trong toàn bộ hoạt động của mình phải dựa trên pháp luật, nếu không nó sẽ bị mất sự tín nhiệm của các công dân - những người đã hợp thành nó. I. Kant đã căn cứ vào sự tồn tại (hay không) chế định phân công quyền lực (lập pháp, hành pháp và t pháp) để phân biệt hai hình thức cầm quyền: NNPQ- có và Nhà nước độc tài- không có (chế định đã nêu), vì theo ông, sự phối hợp và điều hoà của ba nhánh quyền lực này có khả năng ngăn ngừa được chế độ chuyên chế và bảo đảm được sự phồn thịnh của Nhà nước. Quan điểm khoa học nhân đạo của ông là: chủ quyền của nhân dân chỉ có thể đ ược thể hiện trên thực tế thông qua sự phân công quyền lực nh là nguyên tắc Nhà nước quan trọng nhất, vì tính tối cao của chủ quyền của nhân dân là điều kiện cơ bản và quan trọng trong một Nhà nước "của nhân dân" chứ không thể là của cá nhân hay tập đoàn riêng biệt nào,v.v... - G.V.Hêghen (1770-1831) - nhà triết học, nhà tư tưởng thiên tài người Đức mà di sản khoa học đã đánh dấu một cái mốc quan trọng trong toàn bộ lịch sử triết học và lịch sử các học thuyết chính trị pháp luật của nhân loại. Trong số các công tr ình
khoa học của mình, tác phẩm nổi tiếng "Triết học pháp quyền" (1821) là một bộ phận cấu trúc quan trọng trong toàn bộ hệ thống triết học của ông. Trong đó, bằng các quan điểm tiến bộ, ông đã luận chứng cho cấu trúc của NNPQ- với xã hội công dân, trật tự pháp luật và các đạo luật có tính pháp quyền chống lại Nhà nước cực quyền- với xã hội khép kín, bộ máy quyền lực-chính trị quan liêu và hệ thống pháp luật có tính chất tuỳ tiện, mệnh lệnh, v.v... Cùng với bốn nhà lý luận lớn nhất về NNPQ trên đây, nhân loại còn biết đến một loạt các nhà luật học, các nhà tư tưởng vĩ đại khác của giai đoạn này như: Tômát Giêphêsơn (1743-1826)- người đại diện cho quyền lợi của những người sản xuất nhỏ và là tác giả của Tuyên ngôn độc lập Mỹ năm 1776 nổi tiếng, Tômát Pên (1737-1809), Jôn Ađam (1735-1826), Jêm Mêđisơn (1752-1836), v.v... Các quan điểm khoa học tiến bộ và nhân đạo của họ đã góp phần phát triển học thuyết về NNPQ hoặc gắn liền với các văn kiện Nhà nước-pháp luật có ý nghĩa thời đại và ý nghĩa lịch sử toàn thế giới - Tuyên ngôn độc lập Mỹ năm 1776 cũng như Hiến pháp Mỹ năm 1779 - Hiến pháp đầu tiên của loài người. . Đồng thời, lịch sử các học thuyết chính trị-pháp luật cũng đã khẳng định một cách xác đáng rằng: do bản chất tiến bộ và nhân đạo nên các tư tưởng và quan điểm khoa học trên đây đã trở thành các giá trị tinh thần quý báu chung của toàn thể nhân loại, còn lý luận về NNPQ- học thuyết chính trị-pháp luật tiên tiến của nền văn minh toàn thế giới. Bởi lẽ, bản chất tiến bộ và nhân đạo của quan điểm ấy thể hiện ở chỗ: một là, mặc dù là những người xuất thân từ các tầng lớp
trên trong xã hội của các nước công nghiệp Âu-Mỹ các thế kỷ XVII- XIX, nhưng vì đặt lợi ích của toàn thể xã hội và nhân dân trên hết nên khi đa ra các quan điểm tiến bộ và nhân đạo trên đây, các tác giả của chúng không bao giờ ích kỷ, hẹp hòi và tự vơ lấy rằng các tư tưởng và quan điểm ấy chỉ là "của riêng" giai cấp hay tầng lớp xã hội này (mà không phải là của giai cấp hay tầng lớp xã hội kia). Và hai là, vì thế mà các quan điểm tiến bộ và nhân đạo trên đây đã được lĩnh hội và thừa nhận chung (dù là ở các mức độ khác nhau) bởi các nhà tư tưởng thuộc các xu hớng và quan điểm khác nhau trên thế giới. Chẳng hạn như: - C. Mác ngay từ thế kỷ XIX, trong thư gửi Tổng thống Mỹ A. Lincôn, khi nói về Bản tuyên ngôn độc lập ở Mỹ đã ca ngợi là: ở đó, lần đầu tiên đã xuất hiện tư tưởng của một nền cộng hoà dân chủ vĩ đại, ở đó đã ra bản tuyên ngôn đầu tiên về các quyền của con người. Đồng thời, ông đã nêu lên luận điểm nổi tiếng thể hiện rõ tư tưởng về tự do và NNPQ là: "Tự do là ở chỗ biến Nhà nước từ cơ quan đứng trên xã hội thành cơ quan phục tùng xã hội ấy". - V.I. Lê nin vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã khâm phục cuộc chiến tranh giải phóng cách mạng "của nhân dân Mỹ chống lại bọn kẻ cớp Anh" và trong các tác phẩm của mình đã viết rằng: "Không có đờng nào tiến lên chủ nghĩa xã hội ngoài con đờng thông qua chế độ dân chủ và tự do chính trị" - Hồ Chí Minh do nhận thức được các giá trị xã hội tiến bộ của tự do, dân chủ và các quyền con người trong "Tuyên ngôn độc lập Mỹ", nên chỉ trong vòng một
năm (từ sau tháng 9/1945 đến cuối năm 1946) đã gửi 14 văn bản bày tỏ sự mong muốn hợp tác với Mỹ và trong Công hàm ngày 1/11/1945 gửi cho Bộ trởng ngoại giao Mỹ đề nghị gửi 50 thanh niên Việt Nam sang đó học tập, người đã viết là: "rất quan tâm đến các vấn đề của nước Mỹ và thiết tha mong muốn tạo được mối quan hệ với nhân dân và trí thức Mỹ, những người có ý tưởng xuất sắc về công bằng nhân đạo quốc tế..." Đồng thời, nh PGS. Song Thành (nguyên Viện trởng Viện nghiên cứu Hồ Chí Minh) cho biết: những tư tưởng lớn của bản "Tuyên ngôn độc lập Mỹ 1776" đã được Hồ Chí Minh tiếp nhận và trích dẫn nhiều lần, người cũng rất kính trọng Giêphêsơn. - Đảng Cộng sản Mỹ cũng đã ghi nhận trong điều lệ của mình việc phát triển tiếp tục các truyền thống dân chủ của T.Giêphêsơn Đầu thế kỷ XX, tầng lớp trí thức tự do của n ước Nga Sa hoàng đã tuyên bố khát vọng muốn biến nước Nga Sa hoàng thành một NNPQ. Chẳng hạn, P.V.Xtruve đã viết: cuộc đấu tranh để hình thành NNPQ với chế độ xã hội mới và trật tự pháp luật dân chủ (vì lúc bấy giờ, những người trí thức tự do đã hy vọng là bản thân Sa hoàng sẽ tự hạn chế quyền lực của mình và sẽ bắt đầu làm luật cùng với Nghị viện hoặc sẽ chuyển giao quyền lập pháp cho Nghị viện, còn tất cả các cơ quan nhà nước sẽ được ràng buộc bởi pháp luật)V.M.Gexxen quan niệm rằng: NNPQ là Nhà nước thừa nhận hiệu lực bắt buộc của tất cả các đạo luật và các quy phạm pháp lý, bị ràng buộc và hạn chế bởi
pháp luật, đứng dưới pháp luật, chứ không phải đứng ngoài và đứng trên nó Còn P. I.Nôvgôrôđtxev khẳng định là: Nhà nước phải bị ràng buộc bằng các quy phạm đứng trên nó- các quy phạm của đạo đức và quyền tự nhiên, chứ không phải là các quy phạm xuất phát từ ý chí chủ quan của Nhà nước và nằm trong pháp luật do Nhà nước đặt ra ở Liên Xô trớc đây, trong suốt một thời gian dài, do sự ngự trị của các quan điểm bảo thủ và giáo điều nh là sản phẩm sinh ra từ cơ chế quan liêu- cực quyền muốn chính trị hóa khoa học pháp lý Xô Viết, nên học thuyết về NNPQ ít được nghiên cứu, hoặc có được đề cập đến thì cũng không phải là sự phân tích dưới góc độ khoa học, mà là dưới góc độ chính trị, do đó thiếu khách quan, thậm chí đ ã bị xuyên tạc và chụp mũ bằng các thuật ngữ chính trị Về vấn đề này, nguyên Chánh án (nay là Thẩm phán) Tòa án Hiến pháp Liên bang Nga, TSKH luật, giáo s V.Đ.Dorkin đã viết: "chế độ quan liêucực quyền đã cản trở việc biến tư tưởng Nhà nước pháp quyền vào lý luận và thực tiễn của Liên Xô"16. Hội nghị toàn liên bang lần thứ XIX, Đảng Cộng sản Liên Xô (28/6 - 1/7/1988), với Nghị quyết "Về dân chủ hóa xã hội Xô Viết và cải cách hệ thống chính trị" đã tổng kết, đánh giá tình hình và coi việc hình thành NNPQ là sự nghiệp có tầm quan trọng đặc biệt nh là hình thức tổ chức quyền lực chính trị phù hợp hoàn toàn với CNXH dân chủ và nhân đạo. ở Liên Xô cũ nói riêng và hầu nh đại đa số các n ước trong hệ thống XHCN cũ nói chung (trong đó có Việt Nam), học thuyết về NNPQ thực sự có bớc phát triển mới có tính chất quyết định- được nghiên cứu một cách đồng
bộ, toàn diện, có hệ thống và dưới nhiều khía cạnh khác nhau, đồng thời giữ một vị trí xứng đáng trong khoa học pháp lý đúng với nghĩa của nó nh hiện nay. 8. Như vậy, sự thừa nhận chung trên đây đã cho thấy rằng: học thuyết về NNPQ là di sản văn hoá pháp lý chung của toàn thể nhân loại tiến bộ (chứ không phải chỉ là của riêng giai cấp, lực lợng chính trị hay tầng lớp xã hội nào). Chính vì vậy, dưới góc độ khoa học pháp lý (chứ không phải dưới góc độ chính trị!), khi nói đến khái niệm "Nhà nước pháp quyền" cần phải hiểu là chỉ có một thuật ngữ "NNPQ" thống nhất với các nguyên tắc cơ bản được thừa nhận chung mà nhân loại tiến bộ đã biết đến từ các học thuyết chính trị- pháp luật, cũng nh từ thực tiễn xây dựng nó. Còn nếu nh đã gọi là "NNPQ tư sản", "NNPQ kiểu phương Tây" hay "NNPQ kiểu phương Đông" v.v..., chính trị hóa thuật ngữ "NNPQ" thì lại là một vấn đề khác, vì ngay bản thân các tên gọi đó đã là cách đặt vấn đề nghiên cứu NNPQ dưới góc độ chính trị (chứ không phải dưới góc độ khoa học pháp lý). Còn về mặt thực tiễn, việc xây dựng NNPQ cho phù hợp với chế độ xã hội nào- dân chủ t sản, XHCN dân chủ và nhân đạo v.v... hay các điều kiện kinh tế- xã hội hoặc các đặc điểm lịch sử-truyền thống của các nước nào (phơng Đông hay phơng Tây) lại là những vấn đề hoàn toàn khác nữa, chúng còn đang được tranh luận và đòi hỏi phải được nghiên cứu nghiêm túc và sâu sắc mới có thể đa ra được những kết luận chính xác và khoa học, chứ không thì chỉ sẽ là những điều võ đoán một cách chủ quan và hời hợt, thiển cận và nông cạn, duy tâm và duy ý chí.
III. Kết luận
Tóm lại, việc nghiên cứu những vấn đề cơ bản của sự hình thành và phát triển học thuyết về NNPQ trong lịch sử các học thuyết chính trị-pháp luật cho phép đi đến một số kết luận chung dưới đây. 1. Các tư tưởng và quan điểm đầu tiên của nhân loại tiến bộ về NNPQ đã xuất hiện truớc tiên chỉ với tính chất là khát vọng, ước mơ và lý tưởng về các giá trị xã hội cao quý (như công bằng và bác ái, nhân đạo và tình thương, dân chủ và tự do, pháp luật và pháp chế) thực tế là có cội nguồn hình thành và phát triển từ hàng nghìn năm qua trên những chặng đờng tìm kiếm các phuơng tiện và phuơng pháp để nhằm đạt đến giá trị xã hội cao quý ấy. 2. Dần dần, theo chiều dài của thời gian và lịch sử, cho đến hôm nay, với bản chất tiến bộ, nhân đạo và dân chủ, thì NNPQ không những chỉ là một học thuyết tiên tiến trong khoa học pháp lý của nhân loại, mà còn là hiện thực sinh động ở các nước văn minh và phát triển cao trên thế giới. 3. Cuối cùng, nghiên cứu những vấn đề lý luận về NNPQ cần đ ược tiếp tục một cách sâu sắc hơn nữa ở nước ta, nhằm góp phần đa ra phơng án khả thi cho việc xây dựng thành công NNPQ XHCN Việt Nam
Câu 22:Thế nào là cách mạng công nghiệp, những thành tựu của KHCN nửa sau thế kỷ XX có tác động thế nào đến quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ở việt Nam hiện nay.
1. Thế nào là cách mạng công nghiệp.
- Cách mạng công nghiệp là cuộc cách mạng trong lĩnh vực sản xuất; là sự thay đổi cơ bản các điều kiện kinh tế-xã hội, văn hóa và kỹ thuật, xuất phát từ nước Anh sau đó lan tỏa ra toàn thế giới. Trong thời kỳ này, nền kinh tế giản đơn, quy mô nhỏ, dựa trên lao động chân tay được thay thế bằng công nghiệp và chế tạo máy móc quy mô lớn. Tên gọi "Cách mạng công nghiệp" thường dùng để chỉ giai đoạn thứ nhất của nó diễn ra ở cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19. Giai đoạn hai hay còn gọi là Cách mạng công nghiệp lần thứ hai tiếp tục ngay sau đó từ nửa sau thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20.
2. Tác động đến quá trình CNH – HĐH ở Việt Nam
a) Đặc trưng cơ bản:
- Sự phát triển của ngành năng lượng mới.
- Những vật liệu mới cho phép đổi mới và chế tạo những máy móc mới, trong đó có các tên lửa cực mạnh mở ra kỉ nguyên vũ trụ.
- Cách mạng sinh học.
- Máy tính có thể làm hàng triệu đến vài tỉ phép tính trong một giây.
b) Tác động.
Tầm quan trọng của CNH-HĐH với sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta
a.Bối cảnh trong và ngoài nước
Nền kinh tế của nước ta trong quá trình phát triển gặp rất nhiều khó khăn: chịu sự tàn phá nặng nề của chiến tranh, sự chủ quan ỷ lại của lãnh đạo trong khôi phục kinh tế sau chiến tranh bằng máy móc dập khuôn mô hình kinh tế Liên Xô cũ. Bởi vậy, trong một thời gian nền kinh tế nước ta lâm vào tình trạng trì trệ và lạc hậu.Sự nghiệp CNH-HĐH lại được tiến hành sau một loạt nước trong khu vực và trên thế giới .Đó là một khó khăn và thiệt thòi lớn nhưng đồng thời nó cũng tạo ra cho chúng ta những thuận lợi nhất định. Khó khăn là trang thiết bị của chúng ta đã bị lạc hậu đến 40,50 năm so với các nước tiên tiến trên thế giới. Còn thuận lợi được thể hiện trước hết ở chỗ thông qua những kinh nghiệm thành công và không thành công của các nước trong khu vực và trên thế giới, chúng ta có thể rút ra những bài học bổ ích cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
b.CNH-HĐH là một tất yếu khách quan
Thực tiễn lịch sử đã chỉ rõ, để thủ tiêu tình trạng lạc hậu về kinh tế xã hội khai thác tối ưu các nguồn lực và lợi thế, bảo đảm nhịp độ tăng trưởng ổn định, nước ta phải xác định cơ cấu kinh tế hợp lý, trang thiết bị ngày càng hiện đại cho các ngành kinh tế, quá trình ấy gắn liền với quá trình CNH.
Để rút ngắn khoảng cách tụt hậu, Việt Nam phải tìm cho mình một con đường đặc thù, vừa phù hợp với đặc điểm tình hình kinh tế xã hội trong nước vừa bảo đảm xu thế phát triển chung của thế giới. Theo dự thảo báo cáo chính trị của đại hội VII trình lên đại hội VIII của Đảng dự kiến từ nay đến năm 2020 phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Đây là lối thoát duy nhất cho nền kinh tế Việt Nam song cũng là một thách thức mới. Tuy nhiên điểm xuất phát CNH-HĐH ở nước ta hiện nay là tiền công nghiệp với những đặc điểm chủ yếu là nền kinh tế dựa vào các hoạt động thương mại khai thác tài nguyên lao động, quản lý còn nặng về kinh nghiệm. Mặt khác nước ta là một nước nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp là bộ phận của kinh tế nông thôn. Kinh tế nông thôn nước ta chủ yếu là kinh tế thuần nông. Nhìn một cách tổng quát, nếu xét về chỉ tiêu kinh tế như tỷ trọng giữa công nghiệp và nông nghiệp, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất (LLSX) đặc biệt là khoa học kĩ thuật và công nghệ, mức sống của nhân dân ... thì Việt Nam vẫn là một nước nghèo nàn, khó khăn và lạc hậu, đang ở trình độ văn minh nông nghiệp.
Để tiến hành sản xuất lớn, hiện đại, nước ta phải thực hiện quá trình công nghiệp hoá. Đây là một quá trình nhảy vọt của LLSX và của khoa học kĩ thuật. Trong thời kỳ CNH,HĐH LLSX phát triển một cách mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng, chủng loại và quy mô. LLSX được tạo ra trong thời kỳ này là cái “cốt“ vật chất kĩ thuật rất quan trọng và có ý nghĩa quyết định đến tiến trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Nó làm thay đổi cách thức sản xuất chuyển người lao động từ sử dụng công cụ thủ công sang sử dụng công cụ cơ giới và nhờ đó làm mà sức lao động của con người được giải phóng, năng xuất lao động xã hội ngày càng tăng, sản phẩm xã hội được sản xuất ra ngày càng nhiều, càng đa dạng và phong phú, đáp ứng được ngày càng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống nhân dân.
Ở nước ta CNH XHCN được coi là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ. Đảng ta đã xác định được thực chất của CNH XHCN là “quá trình thực hiện sự phân công mới về lao động và là quá trình tích luỹ xã hội chủ nghĩa để không ngừng tái sản xuất mở rộng, CNH XHCN là quá trình xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, do giai cấp công nhân và nông dân lao động dưới sự chỉ đạo của Đảng cộng sản ... CNH XHCN có nhiệm vụ đưa nền kinh tế nước ta từ nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN. Qua đó, để xây dựng nước ta trở thành nước XHCN có nền công nông nghiệp hiện đại, kĩ thuật tiên tiến, quốc phòng vững mạnh, cuộc sống văn minh và hạnh phúc, chúng ta phải tiến hành CNH-HĐH đất nước.
c. Vai trò của CNH-HĐH trong quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam
Công nghiệp hoá là một giai đoạn phát triển tất yếu của mỗi quốc gia. Nước ta từ một nền kinh tế nông nghiệp kém phát triển, muốn vươn tới trình độ phát triển cao, nhất thiết phải trải qua CNH. Thực hiện tốt CNH-HĐH có ý nghĩa đặc biệt to lớn và có tác dụng trên nhiều mặt:
- CNH-HĐH làm phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động, tăng sức chế ngự của con người đối với tự nhiên, tăng trưởng kinh tế, do đó góp phần ổn định và nâng cao đời sống nhân dân, góp phần quyết định sự thắng lợi của CNXH. Sở dĩ nó có tác dụng như vậy vì CNH-HĐH là một cách chung nhất, là cuộc cách mạng về lực lượng sản xuất làm thay đổi căn bản kỹ thuật, công nghệ sản xuất, làm tăng năng suất lao động.
- Tạo tiền đề về vật chất để không ngừng củng cố và tăng cường vai trò kinh tế nhà nước, nâng cao năng lực tích luỹ, tăng công ăn việc làm, nhờ đó làm tăng sự phát triển tự do và toàn diện trong mọi hoạt động kinh tế của con người-nhân tố trung tâm của nền sản xuất xã hội. Từ đó, con người có thể phát huy vai trò của mình đối với nền sản xuất xã hội. "Để đào tạo ra những người phát triển toàn diện, cần phải có một nền kinh tế phát triển cao, một nền khoa học kỹ thuật hiện đại, một nền văn hoá tiên tiến, một nền giáo dục phát triển". Bằng sự phát triển toàn diện, con người sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Muốn đạt được điều đó, phải thực hiện tốt CNH-HĐH mới có khả năng thực tế để quan tâm đầy đủ đến sự phát triển tự do và toàn diện nhân tố con người.
- CNH-HĐH góp phần phát triển kinh tế-xã hội. Kinh tế có phát triển thì mới có đủ điều kiện vật chất cho tăng cường củng cố an ninh quốc phòng, đủ sức chống thù trong giặc ngoài. CNH-HĐH còn tác động đến việc đảm bảo kỹ thuật, giữ gìn bảo quản và từng bước cải tiến vũ khí, trang thiết bị hiện có cho lực lượng vũ trang.
- CNH-HĐH góp phần tăng nhanh quy mô thị trường. Bên cạnh thị trường hàng hoá, còn xuất hiện các thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường công nghệ... Vì vậy, việc sử dụng tín dụng, ngân hàng và các dịch vụ tài chính khác tăng mạnh. CNH-HĐH cũng tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đủ sức tham gia một cách có hiệu quả vào sự phân công và hợp tác quốc tế.
2. Thực trạng CNH-HĐH trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam
2.1 Nội dung của CNH-HĐH
2.1.1 Trang bị kỹ thuật và công nghệ theo hướng hiện đại trong các ngành của nền kinh tế quốc dân
a. Tiến hành cách mạng khoa học kỹ thuật, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật để tự trang bị
Thế giới đã trải qua hai cuộc cách mạng kỹ thuật. Cuộc cách mạng lần thứ nhất nổ ra vào những năm 30 của thế kỷ XVIII với nội dung chủ yếu là chuyển từ lao động thủ công sang cơ khí hoá. Cuộc cách mạng lần thứ XX với tên gọi là cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại .
Trong mấy chục năm gần đây, thế giới đã diễn ra những biến đổi cực kỹ to lớn trong tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị và xã hội. Nội dung của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ II này không chỉ dừng lại ở tính chất hiện đại của các yếu tố tư liệu sản xuất mà còn ở kỹ thuật công nghệ hiện đại, phương pháp sản xuất tiên tiến. Điều này thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
- Về cơ khí hoá:
Chuyển sang cơ chế thị trường, ngành cơ khí đã khắc phục được những khó khăn ban đầu và từng bước ổn định sản xuất, caỉ tiến công nghệ , cải tiến mẫu mã, mở rộng mặt hàng, nâng cao chất lượng sản phẩm.... Hiện nay, ngành cơ khí đã sản xuất được một số mặt hàng bảo đảm chất lượng, không thua kém hàng nhập ngoại nên tiêu thu nhanh, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu nhưng số lượng còn hạn chế, chỉ giới hạn trong một số loại sản phẩm. Ngành cơ khí đã sản xuất được nhiều thiết bị phụ tụng thay thế hàng nhập ngoại, chất lượng không kém hàng nhập ngoại.
Trình độ cơ khí hoá của một số ngành sản xuất vật chất:
+ Trong nông nghiệp: Nội dung sản xuất nông nghiệp chủ yếu là lao động thủ công, sử dụng sức lao động dư thừa ở nông thôn, tỷ lệ cơ khí hoá thấp, sản xuất nông nghiệp vẫn là thủ công trong hầu hết các khâu: làm đất, gieo giống, chăm bón và thu hoach. Mấy năm gần đây, do cơ chế mở nhiều vùng nông thôn đã phát triển mạnh nhiều ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp nhỏ bán cơ khí, song số lao động trong lĩnh vực công nghiệp bình quân toàn quốc không quá 5% tổng số lao động nông thôn.
+ Trong công nghiệp: Công nghiệp cơ khí được áp dụng rộng rãi trong các đơn vị sản xuất công nghiệp quốc doanh. Tuy nhiên, lao động thủ công vẫn cần nhiều trong khâu vận chuyển nội bộ, bao gói, cung ứng dịch vụ công cộng và sản xuất phụ có tính chất gia công. Lao động trong các khâu này thường chiếm 40-50% trong tổng số lao động công nghiệp quốc doanh. Khu vực công nghiệp ngoài quốc doanh chủ yếu vẫn sử dụng lao động thủ công và tay nghề truyền thoóng với công cụ cơ khí nhỏ, bán cơ khí (trừ một số doanh nghiệp tư nhân quy mô tương đối lớn mới được đầu tư trong những năm gần đây)
+ Trong xây dựng cơ bản, tỷ lệ cơ giới hoá trên các công trường xây dựng lớn thường cao hơn các công trường xây dựng nhỏ.
Nói tóm lại, cơ khí hoá trong các ngành sản xuất vật chất xã hội còn thấp, phương tiện cơ khí hoá cũ kỹ, lạc hậu, năng suất lao động chưa cao, chi phí vật chất còn lớn, giá thành sản phẩm cao, chất lượng nhiều mặt hàng chưa bảo đảm. Trong mấy năm gần đây, do đổi mới cơ chế và có bổ sung nhiều thiết bị mới, công nghệ mới nên đã có tác đông đên sự tăng trưởng và phát triển sản xuất xã hội, sản phẩm, mẫu mã hàng hoá đa dạng, chất lượng sản phẩm có tốt hơn trước. Nhưng về cơ bản, trình độ cơ khí hoá sản xuất chưa được cao.
- Về tự động hoá:
+ Trong công nghiệp, việc tự động hoá thường được áp dụng ở mức cao trong các dây chuyền công nghệ có tính liên hợp quy mô lớn. Trừ những nhà máy mới được đầu tư của các nước kinh tế phát triển, hầu hết dây chuyền tự động của Liên Xô (cũ), Trung Quốc và các nước Đông Âu đều lạc hậu, nhiều bộ phận bị hư hỏng phải thay thế bằng các thiết bị nhập ngoại ở các nước kinh tế phát triển.
+ Trong xây dựng cơ bản, tỷ lệ tự động hoá không cao, khoảng 1,5-2% trong công tác xây dựng cơ bản.
+ Trong sản xuất nông nghiệp, tự động hoá chưa được áp dụng, kể cả các xí nghiệp trung ương và xí nghiệp địa phương.
Tóm lại, trình độ tự động hoá còn rất thấp là đặc trưng nổi bật của nền sản xuất nước ta. Điều đó cũng phù hợp với thực tế và có nguyên nhân: lao động trong nước còn dư thưa, cần tạo công ăn việc làm đang là nhu cầu cấp bách hiện nay và nhiều năm sau.
- Về hoá học hoá:
Nhìn chung, công nghiệp hoá học của Việt Nam đã được phát triển trong nhiều ngành sản xuất, tạo ra nhiều sản phẩm cung cấp cho công nghiệp, nông nghiệp, cho tiêu cùng xã hội và có sự tăng trương khá trong các năm gần đây: phân bón hoá học, quặng apatít, thuốc trừ sâu, sơn hoá học, săm lốp các loại....Sản phẩm của hoá học hoá còn được ứng dụng trong nhiều ngành công nghiệp chất dẻo, công nghiệp sản xuất phụ gia, các chất hoá học, xúc tác...Hoá học hoá ngày càng giữ vai trò quan trọng tác động đến năng suất, chất lượng và hiệu quả của sản xuất kinh doanh. Tuy vậy, việc đầu tư để phát triển cho ngành hoá chất còn ít. Hoá học chưa thành nhân tố mũi nhọn cho sự phát triển kinh tế. Đây là nhược điểm của nền kinh tế phát triển thiếu đồng bộ trong thời gian qua.
- Về sinh học hoá: Có một số ngành đang áp dụng công nghệ sinh học như sản xuất rượu bia, nướcgiải khát, phân bón, chăn nuôi, lai tạo giống, vi sinh học, tuy có kết quả đáng kể, tạo ra nhiều loại giống mới cho cây trồng và vật nuôi, có khả năng chống được bệnh tật, phù hợp với thời tiết khí hậu Việt Nam và có năng suất cao, nhưng tỷ lệ áp dụng chưa cao. Đây là ngành sản xuất non trẻ mới được áp dụng vào Việt Nam trong những năm gần đay và đang có nhiều tiềm năng trong tương lai.
-Về tin học hoá: Ngành tin học đã được phát triển khá nhanh trong thời kỳ từ đổi mới kinh tế đên nay. Tin học đang trở thành một ngành mũi nhọn, phát triển mạnh mẽ, gắn kết thông tin thị trường trong nước với thị trường khu vực và thế giới một cách nhanh nhạy. Đồng thời, sản xuất kinh doanh, nghiên cứu khoa học, giảng dạy, thiết kế, phục vụ công tác lãnh đạo các cấp, an ninh và quốc phòng...
Tóm lại, qua phân tích thực trạng trình độ công cụ, công nghệ của công nghiệp hoá trong thời gian qua, chúng ta thấy rằng: trình độ cơ khí hoá, tự động hoá còn thấp, hoá học hoá chưa thực sự được đẩy mạnh; sinh học hoá mới du nhập vào Việt nam, chưa được ứng dụng nhiều; tin học hoá tuy có phát triển nhưng chưa cơ bản; lao động thủ công vẫn còn chiếm tỷ trọng chủ yếu; công cụ, thiết bị, công nghệ cũ kỹ, lạc hậu, thiếu đồng bộ và hiệu quả kinh tế thấp.
b. Trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại còn được thực hiện thông qua nhận chuyển giao công nghệ mới từ các nước tiên tiến
2.1.2 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
a. Việc xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý bao giờ cũng phải dựa trên tiền đề là phân công lao động xã hội
Đối với nước ta, đi từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa không qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa thì tất yêú phải có phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hoá sản xuất giữa các ngành trong nội bộ từng ngành và giữa các vùng trong nền kinh tế quốc dân.
Việc phân công lại lao động xã hội có tác dụng rất to lớn. Nó là đòn bẩy của sự phát triển công nghệ và năng suất lao động, cùng với cách mạng khoa học kỹ thuật, nó góp phần hình thành và phát triển cơ cấu kinh tế hợp lý. Sự phân công lại lao động xã hội trong quá trình CNH-HĐH ở nước ta hiện nay cần phải tuân theo các qúa trình có tính quy luật sau:
Thứ nhất, tỷ trọng và số tuyệt đối lao động nông nghiệp giảm dần; tỷ trọng và số tuyệt đối lao động công nghiệp ngày một tăng lên.
Thứ hai, tỷ trọng lao động trí tuệ ngày một tăng và chiếm ưu thế so với lao động giản đơn trong tổng lao động xã hội.
Thứ ba, tốc độ tăng lao động trong các ngành phi sản xuất vật chất tăng nhanh hơn tốc độ tăng lao động trong các ngành sản xuất vật chất.
Đối với nước ta, phương hướng phân công lao đông xã hội hiện nay cần triển khai cả hai địa bàn: tại chỗ và nơi khác để phát triển về chiều rộng kết hợp phát triển theo chiều sâu. Tuy nhiên, cần phải ưu tiên địa bàn tại chỗ, nên cần chuyển sang địa bàn khác phải có sự chuẩn bị chu đáo. Đi đôi vớ quá trình phân công lại lao động xã hội, một cơ cấu kinh tế mới cũng dần dần được hình thành.
b. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải gắn liền với quá trình công nghiệp hoá. Đại hội Đảng lần thứ VI đã xác định nhiệm vụ " bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm phát triển sản xuất, phù hợp với tính quy luật về sự phát triển của các ngành sản xuất vật chất, phù hợp với khả năng của đất nước và phù hợp với sự phân công lao động, hợp tác quốc tế ". Những kết quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta trong những năm đổi mới được thể hiện ở các khía cạnh cơ cấu khác nhau, trong đó rõ nét nhất và đặc trưng nhất là từ góc độ cơ cấu ngành.
* Công nghiệp hoá cho phép công nghiệp nông thôn tồn tại và phát triển với tốc độ tăng trưởng cao
Nông thôn Việt Nam chiếm 80% dân số, 72 % nguồn lao động xã hội, nhưng mới tạo ra khỏang 1/3 tổng sản phẩm quốc dân (1996). Do vậy, CNH-HĐH nông thôn không những là quan trọng, mà còn có ý nghĩa quyết định đối với quy mô và tốc độ CNH-HĐH đất nước. Vấn đề nêu trên không phải là đặc thù của Việt Nam mà được rút ra từ thực tế và kinh nghiệm các nước trong khu vực châu á. Kinh nghiệm nhiều nước cho thấy HĐH không nhất thiết phải được khởi đầu hoặc được duy trì bởi sự phát triển nhanh của công nghiệp nặng ở một số ít trung tâm công nghiệp, tại các đô thị lớn mà có thể được khởi đầu ở nông thôn và phụ thuộc vào khu vực vày.
Ở Việt Nam , Đảng và Nhà nước rất coi trọng vai trò của nông thôn, nông nghiệp trong sự nghiệp CNH-HĐH. Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng chỉ rõ: "Đặc biệt coi trọng CNH-HĐH nông nghiệp và nông thôn; phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản; phát triẻn công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu". Nhờ quán triệt những chủ, chính sách của Đảng và Nhà nước nhìn chung, sự phát triển của công nghiệp nông thôn trong thời gian qua đươc đánh giá tổng quát như sau:
-Về cơ bản, công nghiệp kể cả dịch vụ nông thôn, chỉ được xem như những ngành phụ để giải quyết thời gian nông nhàn và lao động dư thừa ở nông thôn. Tuy vậy, trong mấy năm gần đây, công nghiệp và dịch vụ nông thôn đã bắt đầu phát triển .
-Công nghiệp nông thôn đã có sự chuyển biến tích cực thực sự. Sự quản lý cứng, gò bó trước đây đã được xoá bỏ về cơ bản. Những chủ trương, chính sách về đời sống kinh tế đã dần dần thấm vào mỗi người dân; cơ cấu vốn đầu tư ở nông thôn đã chuyển theo hướng gìanh cho sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp nhiều hơn.
-Cơ cấu công nghiệp nông thôn đã thay đổi theo hướng thích ứng với cơ chế kinh tế mới trong những điều kiện mới. Sự thay đổi rõ nhất là trong cơ cấu thành phần kinh tế. Kinh tế hộ và các doanh nghiệp tư nhân, trách nhiệm hữu hạn tăng lên một cách nhanh chóng, trong khi các hợp tác xã và kinh tế Nhà nước giảm đi rõ rệt .
-Nhiều ngành nghề, sản phẩm truyền thống từng bị mai một đã dần dần được khôi phục lại do yêu cầu khách quan của nền kinh tế, của thị trường trong nước và quốc tế. Sự phục hồi này thường gắn liền với sự đổi mới, hiện đại hoá các sản phẩm và công nghệ truyền thống. Mặt khác, nhiều làng truyền thống được khôi phục lại có sức lan toả khá mạnh sang các khu vực lân cận.
-Tuy nhiên đến nay công nghiệp nông thôn còn gặp nhiều khó khăn. Trước hết là tình trạng kinh tế thuần nông, cây lúa chiếm tỷ lệ tuyệt đối, sức mua còn rất nhỏ. Trình độ kỹ thuật của công nghiệp nông thôn còn thấp cả về sản phẩm, thiết bị lẫn công nghệ. Trừ một số mặt hàng thủ công mỹ nghệ, sản phẩm, của công nghiệp nông thôn có chất lượng thấp, mẫu mã, kiêủ dáng chậm thay đổi, tốn nhiều nguyên vật liệu, năng lương. Phần lớn thiết bị và công nghệ sản vuất của công nghiệp nông thôn là công cụ thủ công cải tiến hoặc thiết bị thải loại của các cơ sở công nghiệp đô thị. Công nghiệp nông thôn nước ta phát triển không đồng đều, mới chỉ tập trung ở những địa phương có ngành nghề truyền thông, ở ven đô thị, đầu mối giao thông quan trọng.
-Cho đến nay, kinh nghiệm kinh doanh của người dân nông thôn trên các lĩnh vực phi nông nghiệp còn hạn chế, do đó họ chưa dám chấp nhận rủi ro và mạnh dạn kinh doanh. Hơn nữa, họ cũng thiếu những kiến thức về kinh doanh (kinh nghiệm và kiến thức về nghiên cứu thị trường, marketing...). Điều này có thể thấy khá rõ khi quan sát sự khó khăn, chậm chập của việc triển khai các ngành nghề vào vùng chỉ quen sản xuất nông nghiệp, trước hết là trồng trọt thuần tuý.
Những yếu kém trên là một trong những nguyên nhân làm cho sau nhiều thập niên công nghiệp hoá, về cơ bản, Việt Nam hiện nay vẫn là một quốc gia nông nghiệp với một nông thôn rộng lớn thuần nông, mang nặng tính tự cấp, tự túc. Vấn đề đặt ra là phải có một chính sách hợp lý, thống nhất của nhà nước từ trung ương đến địa phương để có thể nhanh chóng công nghiệp hoá nông thôn-một trong những vấn đề của việc xây dựng cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế nước ta.
*Tăng tỉ trọng công nghiệp, dịch vụ, trong cơ cấu kinh tế nước ta
Cơ cấu kinh tế theo 3 nhóm ngành lớn: nông thôn (bao gồm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp), công nghiệp (bao gồm công nghiệp và xây dựng ) và dịch vụ (bao gồm các ngành kinh tế còn lại ) đã có sự chuyển dịch tích cực. Tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP tăng dần, tỷ trọng nông nghiệp giảm dần
Nhìn vaò kết quả chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời gian qua ta có thể nhận thấy 3 vấn đề :
- Thứ nhất: Trong khi tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm dần qua các năm, thì nước ta vẫn vươn lên từ một quốc gia thiếu lương thực phải nhập khẩu, thành một nước đủ ăn, có lương thực xuất khẩu khá và đang vững bước thành một nước bảo đảm an ninh lương thực và xuất khẩu lương thực lớn trên thế giới. Chính sự phát triển vững chắc của ngành nông nghiệp đã tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu theo hướng tích cực - tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế ngành nước ta
- Thứ hai: tốc độ tăng trưởng bình quân của các nhóm ngành lớn của nền kinh tế cũng khác nhau, tăng trưởng nhanh nhất thuộc về nhóm ngành công nghiệp, sau đến dịch vụ và thấp nhất là nhòm ngành nông nghiệp
- Thứ ba: Công nghiệp tuy được coi là ngành quan trọng hàng đầu nhưng trong thời gian đầu của CNH, ở nước ta công nghiệp nhỏ bé mới chỉ sản xuất hàng tiêu dùng và khai thác sản phẩm thô từ tài nguyên thiên nhiên. Nhưng do những đương lối đổi mới của Đảng trong ngành công nghiệp đã xuất hiện nhiều nhân tố mới, tạo tiền đề cho sản xuất tiếp tục phát triển. Cùng với tăng trưởng công nghiệp sẽ chiếm vị trí hàng đầu trong cơ cấu nền kinh tế nước ta.
Cũng không thể có quá trình CNH bằng hệ thống dịch vụ đặc biệt là hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế thấp kém. Vì vậy ngay trong giai đoạn đầu của CNH-HĐH, Đảng ta đã quan tâm thoả đáng cho phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng để phát triển sản xuất và thu hút đầu tư nước ngoài
c, Chuyển dịch cơ cấu kinh tế lãnh thổ
Chúng ta đều biết rằng, cơ cấu kinh tế lãnh thổ phản ánh tình hình phân công lao động theo lãnh thổ. Nền kinh tế-xã hội của nước ta mang đậm nét của một trong những loại hình của phương thức sản xuất châu á. Chủ nghĩa tư bản đã đẩy mạnh phân công lao động xã hội ở một bộ phận lãnh thổ của đất nước (các thành thị, các vùng mỏ, các đồn điền,..) nhưng đại bộ phận lãnh thổ của đất nước vẫn bị ngưng đọng, trì trệ, trong khuôn khổ của một nền tiểu nông lạc hậu; quá trình tái sản xuất giản đơn chỉ giới hạn trong các công xã nông thôn quy mô làng, xã. Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta (ở miền Bắc từ sau năm 1954 và trong cả nước từ sau năm 1975) chịu ảnh hưởng nặng nề của tư duy máy móc, của cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, do đó, phân công lao động theo lãnh thổ kinh tế quốc dân chưa có những chuyển dịch đáng kể và đúng hướng.
So với cơ cấu ngành và cơ cấu lĩnh vực, cơ cấu lãnh thổ có tính trì trệ hơn, có sức ỳ lớn hơn. Vì thế, những sai lầm trong quá trình xây dựng cơ cấu lãnh thổ có ảnh hưởng lâu dài đến sự phát triển kinh tế-xã hội, và rất khó khắc phục, nếu có khắc phục được cũng hết sức tốn kém. Tuy nhiên, trên thực tế, điều hoàn toàn có tính quy luật này chưa được tính đến trong tổng sơ đồ phát triển và phân bố lực lượng sản xuất của nước ta giai đoạn 1986-2000; trong các phương án phân vùng kinh tế và quy hoạch lãnh thổ; trong các kế hoạch và dự án phát triển kinh tế - xã hội cho các vùng; trong các luận chứng kinh tế - kỹ thuật cho từng đối tượng đầu tư xây dựng cơ bản, các công trình cụ thể...Các vùng chuyên môn hoá sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hình thành chưa phù hợp với những điều kiện cụ thể của từng địa phương, không ổn định về phương hướng sản xuất và quy mô, do đó, hạn chế năng suất, chất lượng và hiệu quả của sản xuất xã hội. Các trung tâm công nghiệp và đô thị, đặc biệt là các đô thị lớn, chưa phát triển đồng bộ và đúng hướng, cơ cấu kinh tế và xã hội của chúng chậm đổi mới, kém hiệu quả, do đó, chưa tạo ra được sức mạnh để lôi kéo toàn bộ lực lượng sản xuất các vùng lân cận phát triển .
Điều đáng chú ý ở đây là tác động quản lý vĩ mô thông qua đầu tư xây dựng còn rất yếu, thiếu định hướng. Trong nhiều trường hợp còn áp dụng quy mô và cơ cấu ngành sản xuất cho các vùng khác nhau, chưa phát triển đồng bộ, theo một trình tự hợp lý các phần tử cơ cấu lãnh thổ, đặc biệt là các yếu tố kết cấu hạ tầng sản xuất, xã hội và môi trường.
2.2 Yêu cầu của CNH-HĐH
2.2.1CNH-HĐH - phấn đấu đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp
-Yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá của nước ta được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định tại Đại hội lần thứ VIII là "Xây dựng nước ta trở thành một nước công nông nghiệp có cơ sở vật chất -kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh".
Theo tinh thần của Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng ta phải ra sức phấn đấu để đến năm 2020, về cơ bản, nước ta trở thành nước công nghiệp.
Ở đây, nước công nghiệp cần được hiểu là một nước có nền kinh tế mà trong đó lao động công nghiệp trở thành phổ biến trong các ngành và các lĩnh vực của nền kinh tế. Tỷ trọng công nghiệp trong nền kinh tế cả về GDP cả về lực lượng lao động đều vượt trội hơn so với nông nghiệp.
2.2.2 CNH-HĐH góp phần tăng cường, củng cố khối liên minh công-nông
-Để thực hiện yêu cầu tổng quát trên, trong mỗi giai đoạn phát triển của nền kinh tế, công nghiệp hoá cần phải thực hiện được những yêu cầu cụ thể nhất định. Trong những năm trước mắt, trong điều kiện khả năng về vốn vẫn hạn hẹp, nhu cầu về công ăn, việc làm, rất bức bách, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn; tình hình kinh tế xã hội phát triển, tăng trưởng chưa thật ổn định, chúng ta cần tập trung nỗ lực đẩy mạnh công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn, ra sức phát triển các ngành công nghiệp chế biến nông-lâm-thuỷ sản.
-CNH-HĐH còn đảm bảo sự phát triển ổn định, bền vững về kinh tế và xã hội trên địa bàn nông thôn. Về kinh tế sẽ phát triển cân đối giữa nông nghiệp hàng hoá với công nghiệp và dịch vụ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, nội bộ nông-lâm nghiệp và thuỷ sản, giữa trồng trọt và chăn nuôi, giữa nhóm cây lương thực với các nhóm cây trồng khác, giữa các đàn gia súc và gia cầm...theo hướng tích cức, ưu tiên xuất khẩu. Kinh tế tăng trưởng cao nhưng vẫn bảo đảm ổn định xã hội nông thôn, trước hết tăng việc làm, giảm thất nghiệp, giảm sự phân hoá giàu nghèo trong nội bộ nông dân, tăng phúc lợi xã hội, tăng thu nhập và cải thiện đời sống nông thôn, rút ngắn khoảng cách giữa nông thôn và thành thị, từ đó ngăn chặn dòng người từ nông thôn dồn về thành thị kiếm sống như hiện nay. Vấn đề kết hợp đúng đắn sự phát triển của công nghiệp, nông nghiệp với công nghệ, xác định được các ngành kinh tế và khoa học mũi nhọn, triển khai kịp thời các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, sẽ giúp củng cố và tăng cường liên minh công - nông - trí thức trên con đường đi lên CNXH
2.3 Đánh giá quá trình thực hiện CNH-HĐH nước ta
2.3.1 Thành tích và thắng lợi
a.Tăng sản phẩm thu nhập quốc dân
Khác hẳn với tình hình kinh tế xã hội của thời kỳ kế hoạch hoá tập trung, dưới ánh sáng đổi mới toàn diện nền kinh tế của Đảng, công cuộc CNH,HĐH đất nước trong thời gian hơn 10 năm qua nước ta đã thu được một số thành tựu có ý nghĩa bước ngoặt
Trong lĩnh vực kinh tế, mức tăng trưởng GDP bình quân hơn 8% /năm. Trong tất cả các khu vực sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ đều tăng trưởng cao, lương thực không chỉ đủ ăn mà còn đủ gạo xuất khẩu, đứng thứ 2 thế giới. Ngoại thương tăng trưởng mạnh, lạm phát được kiềm chế ....
b.Đời sống kinh tế xã hội được cải thiện, uy tín quốc tế tăng lên
-Sự kết hợp giữa nguồn lực bên trong và nguồn lực bên ngoài trong quá trình CNH-HĐH trong điều kiện quốc tế và khu vực có nhiều biến đổi. Cùng với quá trình chuyển sang kinh tế thị trường, CNH-HĐH còn gắn liền với việc mở cửa, hội nhập quốc tế và khu vực. Sự hiện diện của các nguồn vốn nước ngoài, bao gồm các nguồn vốn đầu tư ( vốn ODA, FDI ), công nghệ kĩ thuật, kĩ năng quản lý và kinh doanh, thị trường tiêu thụ hàng hoá sản phẩm hàng hoá, dịch vụ... đã chẳng những góp phần quan trọng vào mức tăng trưởng GDP mà còn tạo ra sự năng động trong đời sống xã hội vốn trước đây rất trì trệ.
-Trên cơ sở tăng trưởng kinh tế, đời sống xã hội còn nhiều chuyển biến tích cực, mức sống của nhân dân tăng lên rõ rệt. Tình hình an ninh chính trị ổn định, quan hệ đối ngoại được mở rộng, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế từng bước được nâng lên. Niềm tin của nhân dân vào sự lãng đạo của Đảng và quản lý của nhà nước ngày càng được củng cố. Mặt khác, sự thay đổi cơ chế kinh tế đánh dấu sự đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội đã được thực tiễn cuộc sống và kết quả nêu trên kiểm chứng là đúng đắn, công cuộc đổi mới là hợp lòng dân, là đúng xu thế phát triển khách quan của thời đại và hoà nhập vào cộng đồng quốc tế.
-Sự phát triển cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tích cực: Tổng sản phẩm, tức giá trị tuyệt đối của sản phẩm nông nghiệp không ngừng được tăng lên, nhưng tỷ trọng GDP giảm dần. Nông thôn của nước ta sẽ dần chuyển biến thành nông thôn của một nước công nghiệp. Đời sống của nhân dân được cải thiện và nâng cao, rút ngắn khoảng cách tói đa với đô thị.
2.3.2 Những tồn tại chủ yếu
Bên cạnh những thành tựu và thắng lợi đạt được, sự nghiệp CNH-HĐH ở nước ta còn có những hạn chế. Điều này được thể hiện ở các mặt chủ yếu:
- CNH chưa tạo điều kiện cho phát triển kinh tế-xã hội nhanh, bền vững và có hiệu quả.
Đạt được những thành tựu về phát triển kinh tế-xã hội trước năm 1986 phần quan trọng là nhờ vào sự giúp đỡ, viện trợ từ Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu. Sự phát triển kinh tế trong những năm này nặng về qui mô, hình thức, thiên về công nghiệp nặng, xem nhẹ nông nghiệp, công nghiệp nhẹ, kết cấu hạ tầng, đi vào hướng nội, phát triển theo chiều rộng là chính và quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Điều đó tất yếu dẫn đến kết quả là mặc dù nền kinh tế có tăng trưởng nhưng với tỷ lệ thấp và bấp bênh, có tăng trưởng nhưng hiệu quả thấp. Tốc độ tăng bình quân hàng năm của thu nhập quốc dân thời kỳ (1976-1980): 0,4% và thời kỳ 1981-1985 : 6,4%, trong khi đó tốc độ tăng bình quân của vốn đầu tư của Nhà nước ở 2 thời kỳ đó là:5,6% và 9,2%.
Sau khi vượt qua cơn suy thoái (1988-1990), từ năm 1991, 1992.1993 nền kinh tế đi vào trạng thái phát triển với những thành tựu đáng ghi nhận. Nhưng những thành tựu đó được tạo nên nhờ có tác động của cơ chế và chính sách mạnh hơn, lớn hơn, nhanh hơn, nhạy hơn so với tác động của công nghiệp hoá. Phát triển như vậy là thành tích lớn, nhưng chưa bền vững.
- Công nghiệp hoá tác động rất yếu đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ và có hiệu quả.
Trải qua hơn 30 năm tiến hành CNH, cơ cấu nền kinh tế nước ta chuyển dịch rất chậm và đến nay về cơ bản vẫn là cơ cấu lạc hậu, không năng động, hiệu quả kém, chứa đựng nhiều bất hợp lý và mất cân đối chưa tạo điều kiện cho phát triển nhanh, bền vững và có hiệu quả.
Trong cơ cấu kinh tế: Nông nghiệp vẫn là ngành tạo ra phần lớn thu nhập quốc dân và chiếm đại bộ phận lao động xã hội. Nông nghiệp chưa thoát khỏi tình trạng độc canh, sản xuất nhỏ tự cung, tự cấp, tỷ suất hàng hoá thấp và ít hiệu quả, kỹ thuật canh tác lạc hậu, năng suất thấp. Công nghiệp và dịch vụ còn nhỏ bé, rời rạc, lạc hậu. Công nghiệp chế biến còn nhỏ bé, ở trình độ thấp, hiệu quả kém. Xuất khẩu sản phẩm thô (dầu thô, than, thiếc, gỗ tròn, gạo, thuỷ sản...) chiếm tỷ trọng áp đảo trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu.
Trong khoảng thời gian trên, các nước đang phát triển ở Đông Á và khu vực có sự chuyển dịch nhanh hơn.
Công nghiệp tác động tới nông nghiệp vừa chưa đủ lực (chỉ đáp ứng 10% nhu cầu phân bón...) và cũng chưa đúng hướng (chưa chú ý đến chế biến, bảo quản nông, lâm, hải sản). Kết cấu hạ tầng thấp kém và xuống cấp.
Với cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu như vậy thì nền kinh tế không thể tăng trưởng nhanh, đất nước không thể nhanh chóng vượt ra khỏi tình trạng một nước: nghèo, chậm phát triển.
- Công nghiệp hoá chưa đẩy nhanh và có hiệu quả quá trình nâng cao trình độ kỹ thuật và đổi mới công nghệ trong sản xuất-kinh doanh, đời sống.
Trong nhận thức và chủ trương, Đảng và Nhà nước đã coi "Cách mạng kỹ thuật là thực chất của công nghiệp hoá", "Cách mạng khoa học-kỹ thuật là then chốt", "Khoa học và công nghệ là động lực của đổi mới". Nhưng do thiếu cơ chế và chính sách tích ứng về kinh tế và khuyến khích nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học-công nghệ nên trong nhiều năm, việc đổi mới công nghệ và nâng cao trình độ, kỹ thuật diễn ra rất chậm và hiệu quả kém. Chuyển sang cơ chế thị trường, tốc độ đổi mới có nhanh hơn, cách thức đổi mới tiến bộ hơn, hợp lý hơn và đem lại hiệu quả hơn. Việc đổi mới công nghệ chủ yếu do doanh nghiệp tự lo liệu và đảm nhận-tự chọn mục tiêu, mức độ, cách thức đổi mới, tự cân đối tài chính cho đổi mới. Do vậy, đổi mới sôi động hơn, thiết thực hơn, có địa chỉ cụ thể và có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, sự đổi mới còn lẻ tẻ, cục bộ, từng phần chưa tạo ra sự thay đổi căn bản về chất, sự thay đổi đồng bộ và mang tính phổ biến. Trình độ trang bị kỹ thuật và công nghệ của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực sản xuất dịch vụ còn rất lạc hậu.
Tình trạng kỹ thuật, công nghệ như vậy tất yếu dẫn đến: Chất lượng sản phẩm thấp, giá thành cao, ít có khả năng đổi mới sản phẩm. Nói cách khác, khả năng cạnh tranh của sản phẩm kém và kéo theo đó là gặp khó khăn về thị trường, vốn và tăng trưởng.
3 .Phương hướng và biện pháp thúc đẩy CNH-HĐH tiến lên CNXH
3.1 Phương hướng
3.1.1 Phát triển các ngành kinh tế quốc dân dựa trên cơ sở kinh tế và công nghệ ngày càng hiện đại
-Công nghiệp hoá là phạm trù lịch sử. Nhiệm vụ công nghiệp hoá chỉ được hoàn thành khi nào đất nước ta đủ sức vượt ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển để trở thành một nước giàu, hiện đại, phát triển. Hiện nay đất nước ta đang ở thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp hoá. Mục tiêu công nghiệp hoá ở thời kỳ này là đưa nền kinh tế "ra khỏi khủng hoảng, ổn định tình trạng nước nghèo và kém phát triển, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố quốc phòng và an ninh, tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn vào đầu thế kỷ XXI"
- Nâng cao trình độ trang bị kỹ thuật và đổi mới công nghệ trong tất cả các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ nhằm tạo ra nhiều sản phẩm và dịch vụ với chất lượng tốt hơn, chi phí thấp hơn, lợi nhuận cao hơn, tạo ra nhiều việc làm hơn.
- Chú trọng áp dụng công nghện vừa có hiệu quả về mặt kỹ thuật, vừa có hiệu quả cao về kinh tế xã hội và bảo vệ được môi trường. Thực hiện phương pháp tổ chức sản xuất và tổ chức lao động khoa học trong tổ chức quản lý quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Nội dung của quá trình ứng dụng tiến bộ khoa học- công nghịi vào các ngành kinh tế quốc dân ở nước ta là: Thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá, hoá học và sinh học hoá là chử yếu.Đồng thời tranh thủ đi vào kỹ thuật và công nghệ hiện đại đối với một dố ngành, một số dây chuyền, một số mặt hàng có nhu cầu, có điều kiện và mang lại hiệu quả kinh tế quốc dân cao.
3.1.2 Phát triển đồng thời cả 3 lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ trong một hệ thống mở với cơ cấu năng động, có hiệu quả và chuyển dịch theo hướng CNH-HĐH
- Nông nghiệp là khâu đột phá cần được phảttiển theo hướng đa dạng hoá, có năng suất chất lượng hiệu quả ngày càng cao, có độ bền vững về kinh tế và sinh thái nhằm thực hiện mục tiêu dùng trong nước, nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, sảnphẩm cho xuất khẩu và tạo ra thị trường rộng lớn cho tiêu thụ sản phẩm của công nghiệp và dịch vụ .
- Để phát huy vai trò công nghiệp đối với nông nghiệp và các ngành KTQD trong chặng đường đầu của quá trinh CNH, hướng phát triển của công nghiệp là :
+Phát triển công nghiệp chế biến gắn bó với nông-lâm-ngư nghiệp để đáp ứng nhu cầu trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu, phát huy lợi thế sinh thái , bải vệ môi trường và tài nguyên. Phát triển công nghiệp chế biến theo hướng chiến lược là: Đi từ sơ chế là chủ yếu, tiến toiư tinh chế là chủ yều và thực hiện chế biến sử dụng tổng hợp nguyên liệu.
Giảm dần và tiến tới chấm dứt xuất khẩu sản phẩm dưới dạng nguyên liệu thô.
+Phát triển mạnh công nghiệp hàng tiêu dùng để thoả mãn nhu cầu các loại hàng thông thường, tăng mức đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao cử nhân dân và đẩy mạnh xuất khẩu tạo nhiều việc làm, tạo nguồn tích luỹ ban đầu cho CNH
- Ưu tiên phát triển đi trước các ngành xây dựng kết cấu họ tầng kỹ thuật ( đường, cầu cống, điện, nước) phục vụ cho sản xuất và đời sống. Vì trong công nghiệp xây dựng CNXH của nước ta để kiện toàn các bộ phận của kiến trúc thượng tầng xã hội suy đến cùng cũng phụ thược vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng của xã hội .
- Các ngành và các hoạt động dịch vụ cần được phát triẻn mạnh mẽ cới một cơ cấu đa dạng, chất lượng ngày càng cao, trình độ cgày càng căn minh hiện đại để khai thác tốt nhất mọi nguồn lực. Phát triển nhanh và đi thẳng vào hiện đại với một số lại hoạt động dịch vụ cần phải ưu tiên và có ddiều kiện phát triển mang lại hiệu quả KTQD như các dịch vụ : Ngân hàng, du lịch quốc tế, xuất khẩu, vận tải hàng không, bưu chính viễn thông...
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta theo hướng CNH không chỉ đơn giản là thay đổi tốc đọ và uỷ trọng của công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ trong cơ cấu chung của nền KTQD, trong đó cần tăng tỷ trọng và tốc độ phát triển công nghiệp, dịch vụ mà là phải tạo ra sự thay đổi về chất lượng cơ cấu và trình độ phát triển của mỗi ngành. Nông nghiệp phải chuyển từ độc canh lúa là chủ yếu sang đa sạng hoá theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng,hiệu quả ngày cang cao, Công nghiệp chuyển từ khai thác và sơ chế là chủ yếu với hiệu quả thấp sang một nền công nghiệp đa ngành và có hiệu quả kinh tế- xã hội cao, trong đó công nghiệp chế biến là chủ yếu với hiệu quả thấp sang một nèn công nghiệp đa ngành và có hiệu quả kinh tế - xã hội cao, trong đó công nghiệp chế biến cần được phát triển nhanh hưn các ngành khác. Dịch vụ:Phát triển có hệ thông, theo hướng văn minh, hiện đại.
3.2 Biện pháp :
3.2.1 Biện pháp chủ yếu nhằm phát triển công nghệ theo hướng CNH-HĐH
- Ổn định và mở rộng quy mô thị trường công nghệ
+Trong điều kiện " năng lực nghiên cứu triển khai, đánh giá, lựa chọn công nghệ còn nhiều hạn chế "(nghị quyết trung ương 7) và phù hợp với quy luật chung của nhiều nước đang phát triển, trong môi trường thuận lợi nhất cho việc nhập khẩu công nghệ. Trong bối cảnh hiện nay ở nước ta, cần chú ý về đầu tư nước ngoài, về chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam.
+Gắn liền với các biện pháp kích thích đôid với công nghệ nhập cũng xần tạo sự kích thích cần thiêts đối với các công nghệ sản xuất trong nước. Nếu nhập khẩt nhiều, sự phụ thuộc nặng nề vào nguồn cung công nghệ nước ngoài mà không có năng lực nội sinh ở trong nuức làm cơ sở để tiếp thu, ứng dụng. Nhập khẩu kỹ thuật sẽ chẳng đem lại kết quả bao nhiêu nếi không có được khả năng sửa đổi, cải tiến kỹ thuật đó để áp dụng trong nước. Điều quan trọng đáng lưu ý trong các chính sách và biện pháp tổ chức quản lý đối với sự phát triền công nghệ hiện nay là sự thiều phối hợp và đồng bộ giữa các biện pháp kích thích nhập công nghệ và sản xuất công nghệ ở trong nước.
+Như vậy khuyến khích nhập và bảo hộ nâng đỡ công nghệ sản xuất trong nước là 2 mặt không thể tách rời của cùng một vấn đề. Đây cũng phải là một quan điểm cơ bản trong thiết kế đồng bộ chính sách và biện pháp kích thích cung về công nghệ.
- Đổi mới chính sách và cơ chế khuyến khích đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ hoạt động phục vụ trực tiếp cho sản xuất ở tất cả mọi khât, mọi lĩnh vực, và địa bàn. Theo số liệu thống kê năm 1992thì 94,4% số cán bọ khoa học công nghệ ở nước ta làm viẹc tại các cơ quan trung ương, 5,4%ở cơ quan tỉnh và 0,4%làm việc tại huyện. Trong đó 89,3%cán bộ khoa học công nghệ làm việc ở các cơ quan trung ướng ở thành phố, đô thị. Nguyên nhân chính là cơ chế hiện tại hầu như không khuyến khích cán bộ khoa học công nghệ làm vẹc ở những khâu, địa bàn trực tiếp cắn với sản xuất. Theo túnh toán thì để thực hiện các mục tiêu CNH-HĐH phải xúc tiến tổ chức lại lực lượng khoa học công nghệcủa đất nướn đến năm 2000 có tới 50% càn bộ khoa học công nghệ trực tiếp tại khu vực doanh nghiệp.
- Nhà nước tập trung xây dựng một số khu công nghệ cao và các trung tâm ứng dụng công nghệ mới. Đó chính là hạt nhân cơ sở nghiên cứu thử nghiệm thích nghi và ứng dụng công nghệ phù hợp với kiều kiện cụ thể của đất nước, của địa phương và là một nguồn phát triển cung cấp công nghệ cao cho các hướng phát triển sản xuất ưu tiên của nền kinh tế.
3.2.2. Giải pháp huy động vốn phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH và sử dụng vốn có hiệu quả :
a. Giải pháp huy động vốn
-Huy động vốn trong nước:
Vốn trong nước có thể huy động qua nhiều kênh như: ngân sách nhà nước, doanh nghiệp, ngân hàng, dân cư...Trong đó nguồn vốn trong dân cư và doanh nghiệp và quan trọng nhất bởi vì khu vực này là nơi tạo ra và tích luỹ vồn là nguồn nguyên thuỷ để tạo ra vốn cho ngân sách và cho hệ thống tính dụng .
Để huy động vốn trong nước phục vụ cho nhu cầu CNH-HĐH thì ngoài việc tạo ra các diều kiện cơ bản như hoàn thiện cơ sở pháp lý, bảo vện quyền lợi của người đầu tư, khống ché lạm phát và giữ mức thâm hụt ngân sách thấp, khuyến khích đầu tư trong nước. Để thực hiện được điêù đó cần cần thực hiện tốt các giải pháp sau:
+Coi tiết kiệm là quốc sách, chính sách tiết kiệm phải đượcquán triệt trong cả lĩnh vực sản xuất vật chất và tiêu dùng trong cả khu vực nhà nước các doanh nghệp và các tầng lớp dân cư. Chính phủ cần áp dụng một loạu các biện pháp về ngân sách thuế khoá, kiểm soát nhập khẩu, dành nguông vốn lớn cho CNH-HĐH cụ thể tăng thuế đánh vào hàng xa xỉ không cần thiết, không phù hợp với hoàn cảnh kinh tế nhiện nay.
+Thực hiẹn tắt chặt trong chi tiêu tiền của ngân sách nhà nước, thực hiện nguyên tắc tốc độ tăng chi tiêu dùng thường xuyên của ngân sách nhà nước phải nhỏ hơn tốc độ tăng GDP và nhỏ hơn tốc độ tăng chi cho đầu tư.
- Huy động vốn ngoài nước:
Tranh thủ vốn nước ngoài có vị trí rất quan trọng đối với qua trình CNH-HĐH của nước ta. Để đảm bảo thắng lợi trong cạnh tranh vốn và công nghệ, vấn đề cơ bản đặt ra là phải tăng sức hấp dẫn của môi trương đầu tư ở Việt Nam so với các nước trong khu vực, các giải pháp tập trung là:
+Hoàn thiện cơ sở pháp lý liên quan đến đầu tư nước ngoài làm cho luật lện của ta có nội dung thông nhất, dễ hiểu, dễ áp dụng và gàn gũi với thông lệ quốc tế.
+Cải thiện tình hình phổ biến thông tin cho các nhà đầu tư, cải cách hệ thống thuế cho phù hợp với thông lệ quốc tế, đồng thời với việc mở rộng ký hiệp định tránh đánh thuế trùng với các nước.
+Cải thiện họ tầng cơ sở:giao thông, bưu chính viển thông, điện lực...để đáp ứng cho các nhu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh. Xóa bỏ các thủ tục hành chính đang gây phiền hà cho việc đăng ký đầu tư, thực hiện cơ chế "một cửa"tiếp nhận và xét duyệt các dự án đầu tư.
+Các dự án vay nợ phả được thẩm định và có sự đánh giá chặt chẽ về mọi mặt nhất là khả năng sinh lời, để đảm bảo trả gốc và lãi đúng thời hạn. Lựa chọn đưng loại tài trợ thích hợp, tranh thủ nhiều loại tài trợ khác nhau. Có định hướng đúng và cụ thể cho từng khoản tài trợ, phải có người chịu trách nhiệm đến cùng đối với từng khoản tài trợ.
b. Sử dụng vốn có hiệu quả:
Bên cạnh việc tạo vốn đòi hỏi phải sử dụng vốn có hiệu quả. Muốn làm được điều này, chúng ta cần thực hiện một số giải pháp sau:
- Những năm trước mắt, nước ta cần hướng ưu tiên đầu tư cho việc cải tạo, nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế, trước hết là điện năng, giao thông vận tải, bưu chính viễn thông. Việc đầu tư này có ý nghĩa sống còn bởi vì cơ sở hạ tầng nghèo nàn, yếu kém sẽ gây trở ngại lớn cho sự ngiệp CNH-HĐH nền kinh tế.
- Cần sớm xác định và lựa chọn các ngành công nghiệp mũi nhọn có ưu nghĩa quan trọng và tập trung đầu tư vốn cho các ngành công nghiệp này nhằm khai thác mọi tiềm năng về nguyên vật liệu, tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động...để tạo ra những sản phẩm có hiệu quả kinh tế cao, có lợi thế so sánh trên thị trường quốc tế.
- Chú trọng đầu tư cho CNH-HĐH nông nghiệp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH. Hiện nay, 80% dân số nước ta sống trên các địa bàn nông thôn, nơi mà các tài nguyên trí tuệ, nhân lực, vật lực, vốn và môi trường sống đang hứa hẹn có sức cộng sinh hết sức to lớn.
3.2.3 Đổi mới cơ chế quản lý và nâng cao vai trò của Nhà nước đối với sự nghiệp CNH-HĐH nhanh và có hiệu quả
Phát huy vai trò của quản lý nhà nước trong: Định hướng, điều tiết, tạo môi trường, điều kiện cho sản xuất-kinh doanh, kiểm tra, kiểm soát thông qua sử dụng có hiệu quả và hiệu lực các công cụ và phương pháp quản lý nhà nước.
Trên cơ sở kiên trì thực hiện các mục tiêu của CNH, cần xây dựng, thực hiện, hoàn thiện các chính sách theo hướng đảm bảo đồng bộ, có hiệu lực, vừa cụ thể, vừa mềm dẻo. Chú ý các chính sách như: chính sách cơ cấu, chính sách mở cửa và bảo hộ sản xuất trong nước ở mức cần thiết, đảm bảo nguyên liệu cho sản xuất, bảo vệ môi trường và tài nguyên, lao động, việc làm , tiền công và bảo hiểm; thuế, tiền tệ, tín dụng; chuyển giao công nghệ, khuyến khích nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất; duy trì, phát triển các tinh hoa, bản sắc tốt đẹp của dân tộc và đất nước trên các lĩnh vực: Văn hoá, nghệ thuật, lối sống, kinh tế.
Đổi mới một cách căn bản hệ thống bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế. Xoá bỏ sự phân chia nền kinh tế thành kinh tế trung ương và kinh tế địa phương. Tách quyền quản lý với quyền sử dụng và quyền kinh doanh trong các doanh nghiệp nhà nước. Nhà nước trung ương xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển các ngành. Địa phương cùng với nhà nước quản lý và đảm bảo vấn đề xã hội, môi trường và kết cấu hạ tầng cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
KẾT LUẬN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ BẢN THÂN
1.Kết luận
Quá trình CNH-HĐH ở nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, diễn ra trong xu thế hoà bình ổn định hợp tác và phát triển. Về nguyên tắc thay thế một trạng thái ổn định phải đạt tới sự ổn định cao hơn phù hợp hơn với yêu cầu CNH-HĐH. Ngược lại, CNH-HĐH góp phần trực tiếp giải quyết các vấn đề xã hội còn tồn đọng, góp phần thúc đẩy LLSX từ đó tạo ra QHSX mới với những thành phần kinh tế năng động và tiếp thu những thành quả tiên tiến của các nước khác nhằm rút ngắn khoảng cách tụt hậu của chúng ta.
Chúng ta cần khẳng định rằng “CNH,HĐH là nhằm đạt mục tiêu biến đổi nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, QHSX tiến bộ phù hợp với sự phát triển của sản xuất, nguồn lực con người được phát huy, mức sống vật chất và tinh thần được nâng cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh“(thông báo hội nghị trung ương lần thứ 9 ban chấp hành trung ương Đảng khoá III)
Thành tựu khoa học công nghệ hiện được sử dụng ngày một nhiều trong các doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài, hệ thống kết cấu hạ tầng hiện đại đang được phát triển... chỉ trong một thời gian ngắn, khi đất nước chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH thực thi chính sách kinh tế nhiều thành phần và mở cửa, LLSX ở nước ta có bước đột phá với nhiều trình độ thủ công - cơ khí - điện tử và cơ khí hoá với một đội ngũ lao động áo trắng đại biểu cho công nghệ mới, cho lực lượng sản xuất hiện đại.
Như vậy, về thực chất CNH-HĐH là một quá trình lâu dài để tạo ra sự chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và chính sách quản lý kinh tế, sử dụng lao động với công nghệ là phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự tiến bộ của khoa học công nghệ tạo ra năng xuất lao động cao hơn cho xã hội. Phát triển CNH-HĐH đất nước phải phù hợp với hình thái kinh tế xã hội của đất nước, đó là điều kiện để thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển bắt kịp với xu thế của thời đại.
2.Một số kiến nghị bản thân
Theo em sự biến đổi căn bản, toàn diện cơ cấu kinh tế xã hội từ nước nông nghiệp chuyển sang một nước công nghiệp do CNH-HĐH đem lại phải diễn ra theo một trật tự và theo định hướng XHCN. Kinh tế xã hội không phải là hai mặt tách rời của quá trìnhCNH-HĐH mà phải được coi là hai mặt của một quá trình. CNH-HĐH chỉ được triển khai khi có sự ổn định ở mức độ cần thiết. Chúng ta phải quan tâm nhiều hơn nữa tới công tác giáo dục để tạo ra nguồn lực dồi dào cho đất nước.
KẾT LUẬN
- Lịch sử văn minh nhân loại là một quá trình phát triển liên tục từ thấp tới cao, trong đó có sự đóng góp của rất nhiều dân tộc, nhiều quốc gia. Có những dân tộc ngày nay không còn tồn tại với tư cách một dân tộc độc lập, họ đã bị hoà tan trong quá trình lịch sử, nhưng dấu ấn mà tổ tiên họ để lại tới ngày nay, nhân loại không thể quên, như hệ thống chữ viết A,b, g...của người Phênixi. Không dân tộc nào trên thế giới không học hỏi, tiếp thu những giá trị văn minh của các dân tộc khác. Giao lưu, trao đổi, học hỏi những giá trị văn minh lẫn nhau là qui luật chung của tất cả các dân tộc.
- Thời cổ đại, trong quá trình phát triển gần như độc lập của mình, mỗi dân tộc cũng cũng đã tiếp thu những giá trị văn minh của các dân tộc khác. Chúng ta đã biết, người Hy Lạp thời cổ đại xây dựng được nền văn minh rực rỡ so với thời kì đó, trong đó có nhiều giá trị văn minh họ tiếp thu từ người Ai Cập, Lưỡng Hà cổ đại rồi khái quát, phát triển lên. Tới thời Trung đại, dù không thích người Arập nhưng người phương Tây cũng vẫn phải tiếp thu các chữ số mà người Arập sử dụng, vẫn phải học cách làm giấy từ người Arập...( mặc dù trên chữ số trên mặt các đồng hồ lớn ở nhà thờ phương Tây thì vẫn sử dụng chữ số La Mã). Xu thế hoà nhập, tiếp thu những giá trị văn minh lẫn nhau là qui luật sống còn của mỗi dân tộc.
- Trong thời kì các nước thực dân phương Tây đi xâm chiếm các nước chậm phát triển, văn minh phương Tây được các nhà cầm quyền thực dân đề cao. Sau này, cùng với phong trào đấu tranh đòi độc lập dân tộc, nhiều giá trị văn minh phương Tây bị lên án, bị cho là thủ phạm của lối sống thực dụng, suy đồi, mất gốc. Các cụ nhà Nho trước kia có người đã chửi mắng nặng lời con cháu dám cắt tóc ngắn...Nhưng chỉ sau khi giành độc lập vài chục năm, nhiều nước đã có xu hướng nhận ra rằng, nền văn minh dân tộc sẽ rất hạn chế nếu không chịu tiếp thu những giá trị hợp lí của văn minh phương Tây. Trong vấn đề này, bài học Nhật Bản là một tấm gương đáng để ta suy nghĩ. Nhật Bản trước kia vốn cũng chịu ảnh hưởng nặng nề của văn minh Trung Hoa, nhưng văn minh Nhật Bản đã sớm biết phá vỡ tính biệt lập, sẵn sàng chịu chấp nhận những giá trị hợp lí của văn minh phương Tây. Nhờ vậy, Nhật Bản đã có được chỗ đứng đáng nể trên thế giới của thế kỉ XX.
- Khái niệm văn minh phương Đông và văn minh phương Tây cũng chỉ mang tính chất rất tương đối. Nhiều giá trị của văn minh phương Tây có nguồn gốc từ phương Đông và ngược lại. Ngày nay đi tìm một nền văn minh nào chỉ hoàn toàn do dân tộc đó xây dựng nên cũng khó như đi tìm một dân tộc nào thuần chủng. Trong cuộc giao lưu, cọ xát này, các nền văn minh dân tộc có cơ hội giao lưu với nhau, tiếp thu thành quả của nhau. Khi xem xét một nền văn minh của một dân tộc nào, phải đặt nó trong mối liên quan với các nền văn minh mà nó có quan hệ, nhất là khu vực quan hệ đó lại nằm trong vùng ảnh hưởng của một nền văn minh lớn.
- Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay thì sự hoà nhập giữa các nền văn minh là một điều tất yếu. Sự hoà nhập này lại được thúc đẩy nhanh bởi các phương tiện giao thông hiện đại, cùng với mạng thông tin toàn cầu. Một vài ngôn ngữ đang ngày trở thành ngôn ngữ phổ biến, dùng chung cho các dân tộc như tiếng Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Ảrập. Tiếng Nga, Trung Quốc, Hindu tuy chưa mang tầm cỡ bằng nhưng được nhiều người sử dụng nên cũng có một tầm quan trọng đáng kể.
- Những thành tựu của văn minh thế giới ngày nay là kết quả chung những tri thức mà cả loài người đã xây dựng, tích luỹ qua bao thế hệ. Văn minh thế giới chứa đựng những nét chung nhất mà mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều tiếp thu và vận dụng nó vào cuộc sống của dân tộc mình. Do những điều kiện tự nhiên và điều kiện lịch sử khác nhau, giá trị văn hoá của mỗi dân tộc có những nét khác nhau, có những sắc thái riêng biệt. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để tiếp thu những yếu tố hợp lí, tích cực, hạn chế những yếu tố tiêu cực.
- Dân tộc Việt Nam không phải bây giờ mới đứng trước thách thức khi phải tiếp xúc với các nền văn minh khác. Dân tộc ta nằm giữa hai nền văn minh lớn của Châu Á là Ấn Độ và Trung Hoa. Trong quá trình lịch sử, bên cạnh việc tiếp thu những giá trị từ văn minh Ấn Độ và Trung Hoa, chúng ta vẫn giữ những bản sắc văn hoá riêng của mình, mặc dù có thời gian hàng ngàn năm bị đô hộ, bị cố tình đồng hoá. Trong thời kì bị thực dân Pháp và đế quốc Mĩ xâm lược, bên cạnh việc tiếp thu những giá trị của văn minh phương Tây chúng ta cũng đã chứng tỏ sức sống dân tộc và bản lĩnh văn hoá của mình. Chúng ta không chỉ tiếp thu mà còn đóng góp phần của mình vào văn minh nhân loại. Những nhà văn hoá của chúng ta như Lê Quí Đôn, Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh... là những người được thế giới biết đến và công nhận.
- Trong xu thế hội nhập tất yếu ngày nay, dù muốn hay không chúng ta vẫn phải tham gia, phải đương đầu để mà tồn tại và phát triển. Bên cạnh những cơ hội mới, chúng ta cũng gặp phải rất nhiều thách thức mới. Hàng ngàn năm trước, dân tộc ta cũng đã phải đối phó với những thách thức để tồn tại và dân tộc Việt Nam vẫn giữ được chỗ đứng của mình trên bản đồ thế giới. Mỗi thế hệ đều có những thách thức riêng của mình. Lịch sử đã chứng minh, dân tộc nào đóng cửa để tìm cách tự bảo vệ là thất bại. Trong quá trình hội nhập hiện nay, chúng ta cần chủ động tìm hiểu sự đa dạng về văn hoá của các dân tộc khác, tiếp thu những giá trị văn minh chung của nhân loại để góp phần nhỏ bé của mình vào mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh và bảo vệ, phát huy những tinh hoa của văn hoá dân tộc.
Câu 23: SỰ TIẾP XÚC VỚI VĂN HÓA TRUNG HOA CỦA VĂN HÓA VIỆT NAM
Trong các nước Đông Nam Á thì Việt Nam là nước chịu ảnh hưởng văn hoá Trung Hoa sân sắc nhất (có người đã xếp văn hóa Việt Nam vào khu vực văn hoá Đông Á) và sự tiếp xúc kéo dài xuyên suốt lịch sử văn hoá Việt Nam, thậm chí tiếp thu văn hoá thế giới cũng qua con đường Trung Quốc. Có hai con đường tiếp xúc: con đường di dân và con đường triều đình. Con đường triều đình mà Triệu Đà và sau này là các thái thú thời Bắc thuộc như Tích Quang, Nhâm Diên, Sĩ Nhiếp… mang đến. Đó là những thiết chế Nhà nước, chữ Hán, sách Nho học đủ các loại… Con đường di dân là con đường của những người Hoa dưới tất cả các dạng, sang cộng cư với người Việt mang theo các nghề thủ công, các tục lệ thờ cúng, cưới xin, tang ma… Đó là con đường dân gian. Thông qua hai con đường đó mà các tầng lớp xã hội Việt Nam chủ yếu là người Kinh, có cách tiếp nhận khác nhau: - tầng lớp chính trị khai thác hệ Nho giáo, các thể chế Nhà nước, nền từ chương học Trung Quốc nhằm xây dựng kỷ cương của một quốc gia độc lập mà một bộ máy quan lại được tuyển chọn qua thi cử. Cách tiếp cận thường là sao phỏng và được giản lược hoá cho phù hợp với điều kiện Việt Nam. Giới Nho sĩ trí thức học trong nhà trường, nếu không được làm quan thì về làng dạy học, làm nghề thuốc… Họ là tầng lớp chuyển tải văn hoá và có nhiều đóng góp trong việc bản địa hoá văn hoá Hán hoặc quy phạm hoá nền văn hoá dân gian. - tầng lớp bình dân tiếp cận văn hoá Hán qua con đường truyền khẩu và hỗn dung những yếu tố Hán đã được cải biên vào đời sống thường ngày của họ. Người Hoa chuyển tải văn hoá theo con đường di dân. Kết qủa là ở Việt Nam hình thành nên một nền văn hoá gồm hai dòng chính: cung đình và dân gian với các mối qua hệ tương tác thúc đẩy nền văn hoá quốc gia. ý thức độc lập, tự cường dân tộc đóng vai trò điều chỉnh suốt quá trình tiếp xúc, quán triệt trong mọi tầng lớp xã hội, nhất là những tầng lớp tinh hoa của dân tộc. Sự Hán hoá bắt đầu một cách mạnh mẽ từ thời Mã Viện khi nhà Hán cai trị đất Giao Chỉ. Nhưng do chính sách đồng hoá (đồng hoá áp đặt hoặc đồng hoá tự nhiên) nên người Việt đã chống lại kịch liệt. Trong bối cảnh lịch sử đó, Phật giáo đã trở thành chỗ dựa tinh thần chống lại Hán hoá. Bộ máy Nhà nước chỉ thiết lập được ở quận huyện, còn dưới làng xã vẫn mang tính tự trị, chữ Hán chỉ được dùng trong công văn giấy tờ, chỉ có nhà giàu mới theo được. Còn người dân thì tiếp nhận những yếu tố kỹ thuật của mô hình nhà nước, nhất là các hành lang quanh vùng kinh Bắc. Sự sao phỏng mô hình Trung Hoa được đẩy mạnh trong thời kỳ độc lập. Các triều đại của nhà cước Đại Việt, nhất là từ cuối thời Trần đầu thời Lê đã tự nguyện lựa chọn Nho giáo, cụ thể là Tống Nho làm chỗ dựa tinh thần. Tống Nho còn được gọi là Đạo học, Lý học hoặc Tân Khổng giáo. Điều ngược đời là càng mong xây dựng đất nước hùng mạnh để tránh hiểm hoạ bị xâm lược và đồng hoá, các triều đại quân chủ Việt Nam càng cố theo sát mô hình Trung Hoa. Trong điều kiện đó, sự phát triển của văn hoá Đại Việt, một mặt vẫn có những độ khúc xạ rất lớn đối với nền văn hoá Trung Hoa và một khoảng rất xa trong quan hệ với các triều đại phong kiến Trung Hoa (giữ hoà hiếu thuần phục bên ngoài để đảm bảo độc lập tự chủ bên trong), mặt khác nhìn lên toàn cục, nước Đại Việt ngày càng bị ràng buộc vào quỹ đạo của Trung Hoa như là một định mệnh lịch sử. Tiếp nhận Nho giáo trên cơ tầng văn hoá bản địa Đông Nam Á, do yêu cầu có một chính quyền vững chắc để chống ngoại xâm, Việt Nam đã phát triển với ba đặc điểm: Một là có một chế độ quân chủ tập quyền cha truyền con nối, thuần tuý dân sự, tôn giáo tách khỏi nhà nước. Bộ máy cai trị được đào tạo công phu cả về nhân cách lẫn hình thức (văn trị), không có tầng lớp quý tộc nào ăn bám và cát cứ. Sự thống nhất quốc gia dựa trên văn hoá và chính trị, không phải trên thị trường. Hai là nó có ý thức đầy đủ về một quốc gia, về vai trò nhà nước: công việc rõ ràng, lịch sử được ghi chép đầy đủ, chính quyền thống nhất, có nền văn hiến rộng và rất được coi trọng. Từ thời Lý với câu tuyên ngôn độc lập đầu tiên: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư”, đến Nguyễn Trãi, quan niệm về quốc gia được xác định: “Như Đại Việt ta từ trước Vốn xưng nền văn hiến đã lâu Sơn hà cương vực đã chia Phong tục Bắc – Nam cũng khác Trải Triệu, Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên làm đế một phương Tuy mạnh yếu có khác nhau Song hào kiệt đời nào cũng có…” (Trích Bình Ngô Đại Cáo) Ba là một nước theo Nho giáo rất coi trọng cái “văn” (3). Học vấn do đó được đề cao (nhân bất học bất tri lý). Trong quan hệ cộng đồng lấy lễ làm gốc để xây dựng cuộc sống trật tự, an khang. Theo quan niệm Khổng giáo, trong sự nghiệp “bình thiên hạ”, “dạy tốt hơn cai trị tốt”(Mạnh Tử). Tất cả những nhân tố đó được cấy lên, nói một cách chính xác, trong môi trường cộng sinh trên mảnh đất Việt Nam nên được sàng lọc, được Việt hoá làm cho nền văn hoá Việt Nam thời quân chủ không những chỉ khác với các nước Đông Nam Á mà cũng rất khác với các nước chịu ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa. Tuy nhiên, ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa cũng để lại nhiều hạn chế: Một là, quan niệm văn hoá của cha ông ta rất hạn hẹp, chỉ có chữ nghĩa văn chương, học để thi đỗ làm quan để hưởng giàu sang phú quý và khinh thường mọi loại lao động kể cả lao động nghệ thuật (xướng ca vô loài). Trong một xã hội mà ruộng đất đều thuộc quyền sở hữu của nhà vua, chế độ phân quyền hưởng dụng không dựa trên quyền sở hữu mà dựa trên một cơ sở tôn ti trật tự phi kinh tế. Do đó đẻ ra chế độ quan lại chỉ biết giành nhau địa vị để (3)theo luận ngữ: kẻ quân tử học rộng rãi ở văn, ước thúc bằng lễ thì có thể sống không trái đạo nghiệp hưởng sự phân phối bất bình đẳng. Vì vậy mà con người Việt Nam phải sống với hai nền văn hoá khác nhau: phép vua – lệ làng, chữ Hán – chữ Nôm, đạo Khổng - đạo Phật, văn học bác học – văn học dân gian,… Nền kinh tế tự túc khép kín dựa trên chế độ công hữu về ruộng đất, bóc lột bằng chế độ cống nạp (nộp cả tô lẫn thuế). Người đi buôn được xếp cuối cùng trong các tầng lớp xã hội: sĩ – nông – công – thương. Nước ta không có ngoại thương (bế quan toả cảng)(4) tất yếu không có chuyên nghiệp từ thủ công nghiệp, công nghiệp đến văn hóa… kết quả là mọi gánh nặng đều đổ lên đầu người dân. Hai là, một nền kinh tế tự túc khép kín đến tận gia đình thep kiểu “phương thức sản xuất Châu Á” tất yếu sản sinh ra một “chủ nghĩa dân tuý” (populisme)(5) đầy ảo tưởng được biểu hiện rất sõ trong quan hệ cộng đồng ở làng xã, trước hết đó là một thứ “dân chủ công xã”. Làng tuy bó kín trong luỹ tre xanh nhưng là một thứ không gian nhiều chiều. Ở đây có rất nhiều các thân phận xã hội khác nhau. Tất cả sống chung trong khuôn viên một cái làng. (4)Chính sách đóng cửa thời Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX (5)Populisme: Kiểu chính trị nhận là đại diện cho dân thường
KẾT LUẬN Trên một cơ tầng chung, các dân tộc Đông Nam Á đã tiếp nhận văn hoá Trung Hoa qua những ngả đường khác nhau đan xen chồng chéo, ở mức độ đậm nhạt khác nhau với cách ứng xử không giống nhau để tạo dựng nên những nền văn hoá quốc gia dân tộc. Tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể và cá tính riêng, nhất là lớp người tinh hoa, những người cầm đầu xã hội, mà mỗi dân tộc có sự đam mê riêng, và chính sự đam mê ấy đã để lại những di sản văn hoá rất đa dạng và không giống nhau. Nhờ bản tính cởi mở, các cư dân Đông Nam Á đã tiếp nhận các nhân tố văn hoá Trung Hoa như các thể chế Nhà nước cùng với chữ viết, những tri thức khoa học, văn hoá nghệ thuật,… Những nhân tố này được cấy lên trên cơ tầng văn hoá Đông Nam Á và được bản địa hoá, tạo nên những phong cách cách tân của khu vực. Qua đó, có thể nêu ra một số đặc điểm về cách lựa chọn của người Đông Nam Á trong quá trình tiếp biến vơí văn hoá nước ngoài: Một là, trong hệ giá trị của người Đông Nam Á thì lòng yêu nước, ý thức dân tộc được đề cao. Vì vậy để đất nước được độc lập, người Đông Nam Á sẵn sàng tiếp nhận các yếu tố văn hoá bên ngoài làm cho nền văn hoá của họ trở nên cởi mở, năng động và có tính thích nghi cao. Hai là, trong tiếp biến văn hoá, để xây dựng nềm văn hoá dân tộc và hiện đại, cư dân Đông Nam Á đã bản địa hoá các yếu tố ngoại sinh theo mĩ cảm của mình, đồng thời đổi mới các yếu tố nội sinh theo hướng hiện đại hoá, tạo nên một cơ cấu văn hoá đồng bộ, đa dạng theo trào lưu thế giới. Khái niệm độ khúc xạ cho phép ta giải mã được cảm thức của người Đông Nam Á trong giao lưu tiếp xúc và đổi mới nền văn hoá. Ba là, quá trình tiếp biến văn hoá bao giờ cũng trải qua ba bước: lúc đầu là phản ứng chống đối, tiếp đó là cộng sinh và cuối cùng là hoà nhập (các yếu ngoại sinh) và hội nhập (các yếu tố ngoại sinh), từ phân đoạn hoá ra các thành tố, kết hợp với cái hiện đại rồi tái cấu trúc theo hướng hiện đại, đưa ra những mẫu hình văn hoá thích hợp có sức hấp dẫn quần chúng và hướng họ đi theo lý tưởng thẩm mỹ lành mạnh, nhân bản rất dân tộc nhưng cũng rất hiện đại. Khác với những lần tiếp xúc văn hoá trước đây (bị áp đặt một chiều hay tự phát), tiếp xúc và giao lưu văn hoá trong điều kiện mới của các nước Đông Nam Á thuận lợi hơn nhiều. Với nền độc lập tự chủ, họ có thể chủ động, tự do lựa chọn, khai thác triệt để những lợi thế của mình để làm cho cấu trúc bề mặt của văn hoá thêm đa dạng phong phú, hiện đại và cấu trúc chiều sâu thêm lắng kết để giữ gìn phát huy được bản sắc văn hóa dân tộc mình. Đông Nam Á là một khu vực lịch sử văn hoá thống nhất trong sự đa dạng. Tính thống nhất được xây dựng trên cơ tầng văn hoá bản địa đặc sắc của một chỉnh thể văn hoá Đông Nam Á thời tiền sử, tính đa dạng cũng thuộc về bản chất của nền văn hoá đặc sắc ấy khi nó không ngừng tiếp biến với các nền văn hoá khác để thâu nhận, để biến cải và phát triển trong suốt hàng ngàn năm qua. Ngày nay gia tài văn hoá đa dạng nhưng thống nhất, bản lĩnh văn hoá vững vàng và kinh nghiệm tiếp biến văn hoá phong phú ấy sẽ đem tới cho chủ nhân văn hoá trong khu vực những lợi thế để phát triển quốc gia, để hội nhập khu vực và hội nhập tốt vào thế giới trong xu thế toàn cầu hoá
Câu 24: So sánh cơ sở hình thành các nền văn minh cổ đại Phương Đông và Phương Tây
Trên thế giới đã từng xuất hiện rất nhiều nền văn minh khác nhau, mỗi nền văn minh lại có những thành tựu và đặc trưng riêng làm cho nó càng trở lên quan trọng trong sự phát triển của loài người. Cái nền văn minh có những sự khác nhau đó co thể do các yếu tố về vị trí địa lý hay tự nhiên quy định, tuy nhiên sự phân chia cơ bản nhất là các nền văn minh phương đông và văn minh phương Tây. Sự giống và khác nhau giữa các nền văn minh cổ đại phương Đông và các nền văn minh cổ đại phương Đông là minh chứng cho sự ảnh hưởng của tự nhiên tới việc hình thành cũng như tồn tại và phát triển của các nền văn minh nổi tiếng trên thế giới.
Những điểm giống nhau và khác về cơ sở hình thành các nền văn minh cổ đại phương Đông và phương Tây.
Về điều kiện tự nhiên: Ở phương đông, các nền văn minh được hình thành vào khoảng cuối thiên nhiên kỷ thứ IV – đầu thiên nhiên kỷ thứ V TCN tại lưu vực các con sông lớn như cái nôi của nền văn minh ở Trung Hoa cổ đại hình thành trên lưu vực sông Trường Giang, Hoàng Hà; Ai Cập có sông Nile, Ấn Độ có sông Hằng,…Tại đây là nơi có những điều kiện như phù xa màu mỡ thuận lợi cho phát triển cây lương thực. Địa hình khép kín, Khoáng sản ít.Chế tạo và sử dụng CCLĐ bằng đồng. Khí hậu nhiệt đới gió mùa phù hợp cho việc canh tác và sản xuất nông nghiệp, các loại cây gia vị quy giá.
Văn minh phương Tây hình thành vào đầu thiên nhiên kỷ I TCN Ven biển địa trung hải. Địa hình mở, có nghĩa là có thể giao lưu xung quanh rất thuận lợi bằng đường biển. Đất đai cằn cỗi không thuận lợi cho trồng cây lương thực như ở phương đông Khoáng sản phong phú, biết chế tạo và sử dụng công cụ là động bằng sắt. Khí hậu ôn đời gió mùa Địa Trung Hải không thuận lợi cho canh tác nông nghiệp bằng phương Đông.
Về kinh tế: Ở phương Đông, kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp.
Nông nghiệp là chủ đạo, sản xuất lương thực thực phẩm,..
Chế độ tư hữu ruộng đất kém phát triển.
LLLĐSX: Nông dân, công xã
Phân công lao động xã hội chưa rõ ràng.
Sản phẩm phục vụ nhu cầu nội bộ.
Ở phương Tây: Kinh tế hàng hóa tiền tệ cổ điển.
Thủ CN, thương nghiệp.
Chế độ tư hữu ruộng đất phát triển mạnh.
LLLĐSX: nô lệ.
Phân công lao động xã hội: khá rõ rệt.
Sản phẩm được coi là hàng hóa.
Về trồng chọt, chăn nuôi:
Ở phương Đông thì gồm:
Cây lương thực (lúa…)
Quy mô: manh mún, nhỏ lẻ. Mỗi năm một vụ.
Chăn nuôi quy mô nhỏ: cá thể có chuồng trại, chưa tách khỏi trồng trọt.
Sản phẩm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày.
Ở phương Tây gồm:
1. Cây c. nghiệp (nho, ô liu) v Quy mô: đại điền trang. Có thể canh tác quanh năm.
2. Chăn nuôi quy mô lớn: bầy đàn không chuồng trại, tách rời với trồng trọt.
3. Sản phẩm là hàng hóa để trao đổi lấy hàng hóa. Là nguồn nguyên liệu cho một số ngành thủ công nghiệp.
Về thủ công nghiệp:
Ở phương Đông:
Phát triển cục bộ.
Quy mô nhỏ trong các gia đình.
Ngành nghề phong phú.
Chưa có quá trình chuyên môn hóa.
Lượng sản phẩm ít, chủ yếu phục vụ nhu cầu nội bộ trong công xã.
Ở phương Tây:
Là ngành chủ đạo.
Quy mô lớn, sự dụng lao động nô lệ rộng rãi.
Ngành nghề phong phú.
Chuyên môn hóa ở một số ngành.
Lương sản phẩm nhiều đem trao đổi hàng hóa khác.
Về thương nghiệp:
Ở phương Đông:
Kém phát triển.
Chưa xuất hiện tiền tệ. Phương thức hàng đổi hàng.
Không mang tính quốc tế, hàng hóa trao đổi ít.
Loại hình chợ phiên.
.Ở phương Tây:
Là ngành chủ đạo, đặc biệt là mậu dịch hàng hải.
Đồng tiền x. hiện sớm. Phương thức phong phú.
Mang tính quốc tế, hàng hóa phong phú (nô lệ).
Xuất hiện những ngân hàng cổ điển.
Kết luận: Như vậy giữa các nền văn minh ở Phương Đông va Phương Tây có sự khác nhau, sự khác nhau đó xuất phát từ chính những khác biệt về điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý, khí hậu. Chính môi trường khác nhau sẽ làm cho con người phải biến đổi nó, chinh phục nó để tồn tại trên thế giới này. Hành trình đi chinh phục tự nhiên cũng là cái lúc mà các thành quả của nền văn minh xuất hiện, đánh dấu sự lớn mạnh của các quốc gia thời cổ đại./.
Câu 25:Điều kiện ra đời của nền văn minh công nghiệp(gt)
1. Những kết quả của công cuộc phát kiến địa lí (thế kỉ XV)
Do nhu cầu mở rộng hoạt động thương mại và nhờ vào những tiến bộ kĩ thuật của ngành hàng hải, từ cuối thế kỉ XV, nhiều nhà thám hiểm Âu châu đã tìm ra những con đường biển đi sang phương Đông nơi họ hi vọng sẽ kiếm được nhiều vàng bạc và của cải.
Có thể kể đến 3 phát kiến địa lí lớn sau đây:
- Cuộc hành trình của Vaxcô đơ Gama men theo bờ biển châu Phi đến điểm cực nam (Mũi Hy Vọng) rồi vượt qua Ấn Độ Dương, cập bến Ấn Độ. Những chuyến đi tiếp theo về phía Đông đã đến các quần đảo Đông Nam Á rồi đi vào biển Đông, tới các cảng Trung Hoa và Nhật Bản.
- Những chuyến vượt Đại Tây Dương của Crixtôp Côlông và Vêxpuxơ Amêrigô đã phát hiện ra lục địa châu Mỹ, khi đó được gọi là Tân Thế giới hoặc nhầm lẫn là “Tây Ấn Độ”.
- Cuộc thám hiểm của Magienlan chẳng những đã đến châu Mỹ mà còn vượt qua Thái Bình Dương để tới quần đảo vùng Đông Nam Á, được đặt tên là Philippin. Từ đây, đoàn thủy thủ trở về châu Âu theo đường đi của Vaxcô đơ Gama khi trước.
Mục lục:
Câu 1:Cơ sở hình thành và thành tựu cơ bản của văn minh Ai Cập. 1
Câu 2:Quá trình hình thành đạo Hồi , Ảnh hưởng của Việt Nam?. 3
Câu 3:Những thành tựu cơ bản của văn minh Ấn Độ thời cổ trung đại: 8
Câu 4:Sự hình thành và phát triển của đạo Phật thời cổ trung đại, phân tích ảnh hưởng tích cực của Đạo phật đối với xh Việt Nam hiện nay. 10
Câu 5:Điều kiện hình thành những thành tựu cơ bản của văn minh Trung Quốc thời cổ trung đại?. 11
Câu 6:Những thành tựu cơ bản của Văn minh Trung Quốc thời cỏ trung đại. từ ảnh hưởng đó đến sự phát triển của văn minh thế giới. 12
Câu 7:Bốn phát minh lớn về KHKT của Trung Quốc thời cổ trung đại và ý nghĩa của nó: 14
Câu 8:Quá trình hình thành tư tưởng nho giáo và phân tích những đặc điểm chính của tư tưởng này. Nêu ảnh hưởng của nho giáo trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay. 15
Câu 9:Điều kiện hình thành nền văn minh khu vực Đông nam Á và những thành tựu cơ bản của nền văn minh đó, Việt Nam đã có những đóng góp gì cho nền văn minh khu vực. 19
Câu 10:Điều kiện hình thành nền văn minh Hy Lạp – La Mã và những thành tựu cơ bản của nền văn minh Hy Lạp – La Mã cổ đại. 30
Câu 11:Sự ra đời và phát triển của đạo Ky tô thời cổ trung đại ở châu Âu. 35
Câu 12Những thành tựu nổi bật của nền văn minh Tây Âu thời phục hưng. 36
Câu 13Kết quả và ảnh hưởng của công cuộc phát kiến địa lý đối với sự phát triển của văn minh nhân loại 38
Câu 14:Hoàn cảnh ra đời và ảnh hưởng của phong trào văn hóa phục hưng. 38
Câu 15:Quá trình cải cách tôn giáo và sự hình thành của đạo tin Lành ở Tây Âu thời trung đại 39
Câu 16:Quá trình hình thành và đặc điểm của chế độ phong kiến Tây Âu, phân tích, so sánh những đặc điểm chủ yếu của chế độ phong kiến Phương Đông – Phương Tây. 41
Câu 17:Cách mạng công nghiệp và những thành tựu cơ bản của cuộc cách mạng đó. 42
Câu 18:Những thành tựu cơ bản của văn minh thế giới nửa thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI 44
Câu 20:Kể tên nền văn minh trên thế giới mà A/c yêu thích, cơ sở hình thành của nền văn minh tiêu biểu. 45
Câu 21:Những nét chính trong tư tưởng của nhà khai sang về vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền từ Tk XVI – XVIII. Việt Nam đã vận dụng tư tưởng của các nhà khai sang ntn trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền 45
Câu 22:Thế nào là cách mạng công nghiệp, những thành tựu của KHCN nửa sau thế kỷ XX có tác động thế nào đến quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ở việt Nam hiện nay. 45
Câu 23: SỰ TIẾP XÚC VỚI VĂN HÓA TRUNG HOA CỦA VĂN HÓA VIỆT NAM.. 48
Câu 24: So sánh cơ sở hình thành các nền văn minh cổ đại Phương Đông và Phương Tây. 50
Câu 25:Điều kiện ra đời của nền văn minh công nghiệp(gt) 52
Cập nhật bởi OanhNguyenHoang ngày 05/09/2016 06:07:31 CH