Quyết định giám đốc thẩm xét xử vụ án của Nguyễn Quan Ký (Năm Râu) về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản"

Chủ đề   RSS   
  • #265504 30/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm xét xử vụ án của Nguyễn Quan Ký (Năm Râu) về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản"

    Số hiệu

    33/2010/HS-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm xét xử vụ án của Nguyễn Quan Ký (Năm Râu) về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản"

    Ngày ban hành

    09/12/2010

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Hình sự

     

    ……..

    Ngày 09-12-2010, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án hình sự đối với:

    Nguyễn Quan Ký (Năm Râu) sinh năm 1934; thường trú tại 59/4A Trần Phú, phường 5, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; tạm trú tại 213/17 Lê Hồng Phong, phường 8, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, làm nghề thầu xây dựng; con ông Nguyễn Văn Phi và bà Lê Thị Lầu (đều đã chết); có vợ và 09 con; bị bắt tạm giam từ ngày 25-4-2001 đến ngày 20-3-2002.

    (Trong vụ án này còn có 06 bị cáo khác)

    * Nguyên đơn dân sự: Uỷ ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

    * Người có nghĩa vụ liên quan:

    1. Bà Nguyễn Thị Lãnh sinh năm 19391 trú tại 213/17 Lê Hồng Phong, phường 8, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu;

    2. Chị Nguyễn Thị Tuyết Nhung sinh năm 19601 trú tại 213/17 Lê Hồng Phong, phường 8, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu;

    3. Chị Nguyễn Thị ánh Tuyết sinh năm 1964; trú tại 26/16 Lê Hồng Phong, phường 8, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu;

     4. Anh Nguyễn Quang Nguyên sinh năm 1963; trú tại 26/19 Lê Hồng Phong, phường 8 , thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu;

    5. Chị Nguyễn Thị Ngọc Diện sinh năm 19661 trú tại 213/17 Lê Hồng Phong, phường 8, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu;

     6. Anh Nguyễn Quang Sang sinh nămi970, trú tại 213/17 Lê Hồng Phong, phường 8 , thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu;

    7. Anh Nguyễn Quang Trường sinh năm 1976, trú tại 213/17 tê Hồng Phong, phường 8, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu;

    8. Anh Nguyễn Quang Nhàn sinh năm 19751 trú tại 213/17 Lê Hồng Phong, phường 8, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu;

    9. Anh Nguyễn Quang Hiền, trú tại 213/17 Lê Hồng Phong, phường 8, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

    NHẬN THẤY:

    Nguyễn Quan Ký có một số giấy tờ về đất tại khu vục Trại giống tôm càng xanh, đường Nguyễn Tri Phương (nay là đường Lê Hồng Phong, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu); Ký nói chuyện với anh Nguyễn Hoài Sơn (Phó giám đốc khách sạn Phương Đông) và Nguyễn Quang Vinh (nhân viên Văn phòng luật sư số 2, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) về ý định của mình muốn dùng các giấy tờ này để xin đền bù đất. Anh Sơn và anhVinh giới thiệu Ký với Phan Văn Thông (cùng làm ở Văn phòng luật sư số 2) để làm dịch vụ xin đền bù đất.

    Vào tháng 6-1998, Nguyễn Quan Ký đã ký hợp đồng với Phan Văn Thông và thỏa thuận: Thông cùng Ký liên hệ với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xin phục hồi quyền sử dụng 5.000 m2 đất thuộc khu vực Trại giống tôm càng xanh ở đường Lê Hồng Phong, phường 2, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu hoặc không nhận quyền sử dụng đất thì nhận tiền đền bù, mọi chi phí do Thông bỏ ra, nếu được thì mỗi bên hưởng 50%. Sau khi ký kết hợp đồng, Ký cung cấp cho Thông các giấy tờ về nguồn gốc lô đất để Thông đi làm thủ tục, cụ thể:

    - 01 Giấy viết tay đề ngày 26-7-1971 về “sang nhượng công khai phá đất bưng" giữa ông Nguyễn Văn Thanh và vợ là bà Huỳnh Thị Ba với Nguyễn Quan Ký và vợ là bà Nguyễn Thị Lãnh, tổng diện tích lô đất sang nhượng là 11.330 m2(dài 110 m x 103 m), giấy này không có xác nhận của chính quyền cũ.

    - 06 tờ biên lai đóng thuế 10.000 m2 đất từ năm 1963 đến năm 1971, ghi tên người nộp là ông Nguyễn Văn Thanh trú tại 39 Trưng Nhị, thành phố Vũng Tàu; 06 tờ biên lai này là bản phô tô, không có chứng nhận sao y bản chính.

    - 01 Biên bản đo đạc sơ đồ vị trí lô đất B10, đường Nguyễn Tri Phương (nay là đường Lê Hồng Phong) lập ngày 09-3-1974 của trắc địa sư Nguyễn Văn Đát vẽ theo yêu cầu của bà Nguyễn Thị Lãnh. Biên bản này không có xác nhận của chính quyền địa phương hoặc kiến thị của Ty điền địa chế độ cũ.

    - 01 Giấy viết tay của ông Huỳnh Văn Thanh (nguyên Chủ tịch UBND phường Thắng Tam) đề ngày 26-6-1996 xác nhận: Nguyễn Quan Ký có bán cho ông Khương 1.700 m2 đất, diện tích còn lại gửi phường để đi xây dựng kinh tế mới (giấy này không xác định vị trí và diện tích lô đất).

    Với những giấy tờ mà Ký cung cấp thì cả Thông và Ký đều hiểu rằng không đủ căn cứ pháp lý để xin phục hồi quyền sử dụng đất hoặc xin đền bù, nhưng Thông đã bàn bạc, đạo diễn cho Ký và Vinh gặp gỡ một số người quen để xin xác nhận không đúng sự thật về nguồn gốc lô đất nhằm củng cố thêm trong hồ sơ xin phục hồi quyền sử dụng 5.000 m2 đất. Thông đã thảo đơn cho Ký với nhiều nội dung không đúng sự thật gửi Uỷ ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu để xin phục hồi quyền sử dụng lô đất hoặc được nhận tiền đền bù (gìn kèm theo đơn là các giấy tờ do Ký cung cấp) .

    Sau khi gửi đơn đến Uỷ ban nhân dân thành phố Vũng Tàu, Thông nhờ Huỳnh Văn Nam (là chủ nhà cho Thông thuê địa điểm mở Văn phòng luật sư) móc nối với Nguyễn Văn Mạnh (Phó phòng địa chính thành phố Vũng Tàu) nhờ giúp đỡ; Mạnh đồng ý và yêu cầu chi 5% giá trị được đền bù, Nam đồng ý và về trao đổi với Thông, Thông nhất trí. Sau đó, Mạnh mời Thông và Ký đến cơ quan gặp Mạnh để xác định giấy tờ; do có sự thỏa thuận trước nên Mạnh không tổ chức xác minh thực tế mà chỉ dựa vào các giấy tờ do Ký và Thông cung cấp để lập tờ trình gửi Uỷ ban nhân dân thành phố Vũng Tàu với nội dung: Ký có 5.000 m2 đất tại khu vực Trại giống tôm càng xanh ở đường Lê Hồng Phong, phường 2, thành phố Vũng Tàu và đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh đền bù công khai phá 5.000 m2 đất cho Ký.

    Sau khi gửi tờ trình lên Uỷ ban nhân dân tỉnh, Mạnh còn phải tường trình về lô đất này với Tổ thẩm định 154 do Đoàn Minh làm tổ trưởng, Lê Văn Khiêm làm thư ký, Ngô Minh và một số người khác làm thành viên. Biết được hồ sơ sẽ phải qua tổ thẩm định 154, Thông và Nam đã tổ chức ăn nhậu tại quán Vũ Bò mời Đoàn Minh tham gia. Đoàn Minh gọi điện cho Lê Văn Khiêm cùng tới ăn nhậu. Tại đây, Nam đặt vấn đề nhờ Khiêm giúp đỡ về hồ sơ xin phục hồi quyền sử dụng đất cho Ký; Khiêm đồng ý và yêu cầu được chia 10% giá trị đền bù. Sau đó, Tổ thẩm định họp và không ai có ý kiến gì mà nhanh chóng được nhất trí thông qua. Ngày 12-8-1999, Khiêm thảo tờ trình đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh xét công nhận quyền sử dụng 5.000 m2 đất và đền bù giá từ đất nông nghiệp cho Ký.

    Trên cơ sở tờ trình của Uỷ ban nhân dân thành phố Vũng Tàu và tờ trình của tổ thẩm định 154, ngày 08-9-1999 UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ra quyết định số4659/QĐ-UB công nhận quyền sử dụng đất cho Nguyễn Quan Ký, giao cho UBND thành phố Vũng Tàu cùng Sở tài chính và Sở địa chính lập phương án đền bù.

    Trước khi Hội đồng đền bù họp, Thông, Nam và Đoàn Minh đặt vấn đề với Nguyễn Hữu Trí (Phó chủ tịch Hội đồng đền bù) và Phạm Hồng Thái (chuyên viên Hội đồng đền bù) nhờ giúp đỡ để việc đền bù cho Ký được nhanh chóng, thuận lợi.

    Ngày 17-9-19991 Nguyễn Hữu Trí đã tổ chức họp Hội đồng đền bù để lên phương án đền bù. Mặc dù, không xem xét thực tế, không có sơ đồ vị trí lô đất và không đủ thành phần tham gia cuộc họp, nhưng Trí vẫn tiến hành họp và lên phương án đền bù theo lời trình bày của Nguyễn Quan Ký; sau đó, gửi báo cáo cho UBND tỉnh là đủ thành phần tham gia cuộc họp.

    Ngày 23-12-1999, Uỷ ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ra quyết định số 7437 phê duyệt kinh phí đền bù cho Nguyễn Quan Ký 1.971.450.000 đồng.

    Ngoài ra, Huỳnh Văn Nam biết Nguyễn Bá Bảng (cán bộ Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) có mối quan hệ quen biết với nhiều lãnh đạo ở UBND tỉnh, Sở tài chính và Kho bạc nhà nước tỉnh, nên Nam đã gặp Bảng nhờ giúp đỡ. Bảng nhận lời và đề nghị phải chi 30% trong số tiền mà Thông được hưởng, Thông và Nam đồng ý. Sau khi có sự tác động của Bảng thì việc giải quyết đền bù được tiến hành thuận lợi, nhanh chóng. Khi có lệnh chi tiền đền bù cho Ký, Bảng đã lo làm thủ tục nhận tiền, đồng thời báo cho Ký và Thông đến Kho bạc nhận tiền.

    Ngày 29-12-1999, Ký, Nam và Thông đến kho bạc nhận 1.971.450.000 đồng. Trong đó, Ký nhận 985.000.000 đồng mang về chia cho các con hết tổng số 280.000.000 đồng, còn lại 705.000.000 đồng Ký tiêu dùng số còn lại 986.450.000 đồng Nam nhận về chi cho Bảng 350.000.000 đồng (Bảng khai nhận 150.000.000 đồng), Mạnh 50.000.000 đồng, Khiêm 38.500.000 đồng, Thông 115.000.000 đồng, Đoàn Minh 40.000.000 đồng, Trí 5.000.000 đồng (Minh và Trí không thừa nhận), Phạm Hồng Thái 20.000.000 đồng (Thái khai nhận 2.000.000 đồng), Vinh 30.000.000 đồng. Ngoài ra, theo yêu cầu của Ký, Nam còn đưa cho Vinh 30.000.000 đồng để mua xe máy cho ông Huỳnh Văn Thành (nguyên Chủ tịch UBND phường Thắng Tam, đã có công xác nhận đất cho Ký.

    Tại bản án hình sự sơ thẩm số 144/HSST ngày 28-7-2003, Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu áp dụng điểm a khoản 4 Điều 139; điểm a khoản 3 Điều 289; điểm m khoản 1 và khoản 2 Điều 46; Điều 42 Bộ luật hình sự năm 1999; Điều 41 Bộ luật hình sự năm 1985 xử phạt Nguyễn Quan Ký 12 năm tù về tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" và 13 năm tù về tội “Đưa hối lộ; tổng hợp hình phạt buộc Ký phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 20 năm tù. Buộc Nguyễn Quan Ký phải bồi thường cho Uỷ ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu 705.000.000 đồng (khấu trừ 20.000.000 đồng chị Nguyễn Thị Hồng Vân đã nộp), còn phải nộp tiếp 685.000.000 đồng. Buộc những người có tên sau đây phải nộp lại số tiền mà bị cáo Nguyễn Quan Ký đã chia cho từ tiền đền bù đất trái phép để trả lại cho Uỷ ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu: anh Nguyễn Quang Nhàn và anh Nguyễn Quang Trường mỗi người phải nộp 50.000.000 đồng; các chị Nguyễn Thị Tuyết Nhung, Nguyễn Thị Ánh Tuyết, Nguyễn Thị Ngọc Diện và các anh Nguyễn Quang Nguyên, Nguyễn Quang Sang, Nguyễn Quang Hiền mỗi người phải nộp 30.000.000 đồng. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn xử phạt các bị cáo: Phan Văn Thông 20 năm tù về 02 tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Đưa hối lộ” Huỳnh Ngọc Nam 13 năm tù về tội "Đưa hối lộ” , Nguyễn Văn Mạnh 09 năm tù và Lê Văn Khiêm 05 năm tù đều về tội “ Nhận hối lộ”, Đoàn Minh 03 năm tù và Nguyễn Hữu Trí 30 tháng tù (cho hưởng án treo) đều về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, Nguyễn Bá Bảng bị phạt 30 tháng tù về tội đợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi, Nguyễn Quang Vinh 12 tháng tù về tội dừa đảo chiếm đoạt tài sản .

    Ngày 07-8-2003, Nguyễn Quan Ký kháng cáo kêu oan.

    Các bị cáo Thông, Trí và Đoàn Minh đều kháng cáo kêu oan; các bị cáo Nam, Vinh và Bảng đều kháng cáo xin giảm hình phạt.

    Tại bản án hình sự phúc thẩm số 749/HSPT ngày 07-4-2004, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quyết định tại bản án hình sự sơ thẩm về hình phạt và mức bồi thường đối với Nguyễn Quan Ký. Đồng thời, giữ nguyên quyết định của bản án hình sự sơ thẩm đối với các bị cáo: Thông, Nam, Đoàn Minh, Vinh và Trí; giảm hình phạt đối với Nguyễn Bá Bảng từ 30 tháng tù xuống 24 tháng tù.

    Tại Quyết định kháng nghị số01/QĐ-VKSTC-V3 ngày 09-01-2009, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm hủy một phần bản án hình sự phúc thẩm số 749/HSPT ngày 07-4-2004 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và bản án hình sự sơ thẩm số 144/HSST ngày 28-7-2003 của Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đối với Nguyễn Quan Ký để điều tra, xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật.

    XÉT THÂY:

    Theo nhận định tại kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao thì có nhiều chứng cứ tài liệu cung cấp về việc gia đình Nguyễn Quan Ký có 5.000 m2 đất tại khu vực Trại giống tôm càng xanh, đường Nguyễn Tri Phương (nay là đường Lê Hồng Phong, phường 2, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) mà cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm chưa làm rõ được, cụ thể:

    1. Ngày 26-7-1971, ông Nguyên Văn Thanh viết giấy nhường cho Nguyên Quan Ký lô đất bưng số 10 tờ 17 khu Thắng Tam, thị xã Vùng Tàu với diện tích 11.330 m2 (chiều dài do 110m, rộng 103 m). Ông Thanh khai bán cho Ký 5.000 m2 nằm sát lô đất của ông Huynh Văn Thử; sau khi bán, Ký chưa trả hết tiền nên vợ ông là Huỳnh Thị Ba đòi nợ kéo dài đến năm 1975 mới trả đủ.

    Nhưng theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì giấy sang nhượng này ghi diện tích đất sang nhượng là 11.330 m2, nhưng Ký lại khai mua của ông Thanh 10.000 m2 và sau đó bán lại cho ông Huỳnh Văn Thử 5.000 m2. Ông Thử khẳng định không mua đất của Ký, mà năm 1971 ông trực tiếp mua đất của ông Nguyễn Văn Thanh với diện tích 5.000 m2 ở khu vực Trại giống tôm càng xanh, đường Nguyễn Tri Phương, giấy mua bán có xác nhận của chính quyền địa phương (BL 641); đồng thời ông Thử cũng khẳng định Nguyễn Quan Ký không hề có đất cạnh lô đất của ông, nhà và đất của Ký ở đối diện bên kia đường Nguyễn Tri Phương (BL 632). Ông Nguyễn Văn Thanh khai có bán cho ông Thử 5.000 m2 đất vào năm 1971, sau đó khoảng 01 năm bán tiếp cho Ký 5.000 m2 đất cạnh lô đất đã bán cho ông Thử; giấy sang nhượng công khai phá đất bưng cho bị cáo Ký do ông tự viết, ghi tên người mua là ông Năm Râu chứ không ghi tên Nguyễn Quan Ký (vì ông không biết tên chính của Ký) và chỉ do một đình ông ký vào giấy này, không có chữ ký của vợ ông, không có chữ ký của vợ chồng bị cáo Ký và các nhân chứng (BL 606). Ký thừa nhận Giấy sang nhượng đất này đo ông Thử đưa cho bị cáo để hợp thức hóa việc bì cáo mua đất của ông Thanh chứ không phải giấy chính do bị cáo và ông Thanh lập, còn giấy sang nhượng đất chính giữa ông Thanh và bị cáo Ký lập thì bị cáo đã đưa cho ông Thử để tách thửa khi bị cáo bán đất cho ông Thử (BL 823). Mặt khác, giấy này được lập năm 1971 tại Vũng Tàu (thời chế đô Ngụy quyền) nhưng lai khi quốc hiệu “Việt nam dân chủ công hòa" là không đúng. Như vậy, giấy sang nhượng đất này không đủ căn cứ để chứng minh bị cáo Ký đã mua 5.000 m2 đất của ông Thanh.

    2. Ngày 09-3-194 văn phòng Trắc địa sư Nguyễn Văn Đát lập bản đồ và vẽ sơ đồ cho ông Nguyễn Quan Ký và ông Huỳnh Văn Thử lô đất số 10 tờ 17 khu Thắng Tam, thị xã Vũng Tàu phân làm hai diện tích lô A10 và B10.

    Nhưng trong hồ sơ vụ án thì biên bản đo đạc này không có xác nhận của chính quyền địa phương hoặc kiến thị của Ty điền địa Vũng Tàu nên không có giá trị pháp lý; vì vậy, biên bản đo đạc này không có giá trị chứng minh lô đất đó là tài sản của bị cáo Ký. Mặt khác, theo tài liệu do Trung tâm lưu trữ tư liệu địa chính chi nhánh miền Nam cung cấp thì lô đất số 10 - tờ 17, đường Nguyễn Tri Phương là đất công sản quốc gia chưa truất hữu.

    3. Ngày 28-10-1999, Nguyên Văn Mạnh là Phó phòng địa chính thành phố Vũng Tàu đã đo vẽ lô đất 5.000 m2 ở khu vực tôm càng xanh cho Nguyễn Quan Ký theo Quyết định số4650 ngày 08-9-1999 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

    Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì tại Điều 1 trong quyết định số4650/QĐ-UB ngày 08-9-1999 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Bà Ria - Vũng Tàu “ Việc giải quyết đơn của Nguyễn Quan Ký khiếu nại về quyền sử dụng diện tích đất 5.000 m2 tọa lạc tại trường Lê Hồng Phong, phường 2, thành phố Vũng Tàu “có ghi kèm theo quyết định này là sơ đồ vị trí lô đất do Phòng địa chính thành phố Vũng Tàu lập. Nhưng thực tế thì trước và khi đã có quyết định này, Phòng địa chính thành phố Vũng Tàu vẫn chưa đo vẽ sơ đồ vị trí đất của Ký mà tới ngày 12-l0-1999 Mạnh mới cho cán bộ đo vẽ của Phòng xuống đo vẽ theo chỉ dẫn của Ký, ngày 28-10-1999 Sơ đồ vị trí đất của Nguyễn Quan Ký mới được hoàn thành (lời khai của Mạnh tại BL l050).

    Theo chỉ đạo của Phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố Vũng Tàu về việc đo vẽ sơ đồ vị trí đất của Ký: yêu cầu Phòng địa chính thành phố Vũng Tàu phối hợp với Sở địa chính , Uỷ ban nhân dân phường 2 và Hội đồng đền bù để tổ chức đo vẽ. Khi tổ chức đo vẽ không có Sở địa chính và Uỷ ban dân dân phường 2 tham gia, nhưng Mạnh vẫn báo cáo là có sự tham gia của hai cơ quan trên, trong hồ sơ đo vẽ không có văn bản xác định ranh giới tiếp giáp với các hộ liền kề (lời khai của Mạnh tại BL l049).

    Ngoài ra, tại Cơ quan điều tra Nguyễn Văn Mạnh đã khai: tôi đã chủ quan, không xác minh kỹ về nguồn gốc đất mà đã báo cáo là xác định rõ nguồn gốc đất của Ký và tham mưu cho Uỷ ban nhân dân thành phố ra quyết định số 86 đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh xét giải quyết cho Ký (BL l042). Những giấy tờ mà Ký xuất trình về nguồn gốc 5.000 m2 đất tại khu vực Trại giống tôm càng xanh là không đủ cơ sở pháp lý để nói rằng ông ta có đất, nhưng tôi vẫn làm tờ trình gửi cấp trên là Ký có đất để tôi được hưởng lợi ích vật chất và thực tế tôi đã nhận từ Nam và Thông 50.000.000 đồng (BL 1064). Do có động cơ vụ lợi nên không làm theo trình tự của việc giải quyết đơn theo quy chế làm việc, làm trái với các văn bản pháp luật của Nhà nước và các quy định của Uỷ ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, chỉ lấy những giấy tờ có nội dung mập mờ do Ký cung cấp làm tài liệu chính để vẽ lên chuyện Ký có đất, thực tế những giấy tờ này không đủ cơ sở để xác định ông ta có đất. Từ hành vi sai trái của tôi, đã tiếp tay cho một loạt sai phạm của tổ 154 và làm Nhà nước thiệt hại gần 02 tỷ đồng (BL 1060, 1061, 1062). Tại phiên tòa sơ thẩm, Mạnh khai với hồ sơ của Ký thì chưa đủ cơ sở pháp lý để phục hồi quyền sử dụng đất và đền bù.

    4. Tại Biên bản xác minh ngày 1-4-2001 của Cơ quan điều tra, bà Lê Thị Minh khai: khi trông coi 5.000 m2 đất cho ông Thử bà có khai hoang thêm 5.000 m2 đây ở bên cạnh đất của ông Thử và 2.000 m2 đây ở phía sau đất của ông Thử.

     Các lời khai của bà Lê Thị Minh tại Cơ quan điều tra đều thừa nhận việc này. Ngoài ra, bà Minh còn khai lô đất 5.000 m2 mà bà Minh khai phá thêm ở cạnh lô đất của ông Thử là của ông Tuấn cận (bà Minh không biết ông Tuấn cận là ai nên tự khai phá), sau năm 1975 gia đình bà đã đăng ký sử dụng 12.844 m2 đất và làm đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước  cho đến khi Nhà nước thu hồi (BL 657).

    5. Sau khi xét xử phúc thẩm, bà Nguyễn Thị Lãnh (là vợ của Ký) có đơn khiếu nại về vụ án này nên ngày 12-12-2005 Viện kiểm sát nhân dân tôi cao tiến hành xác minh bổ sung, kết quả như sau:

    - Bà Nguyên Thị Lãnh (vợ của Ký) khai: gia đình bà có mua 5.000 mà đất của ông Nguyên Văn Thanh, anh Nguyên Phước Lộc (con trai ông Thanh) trực tiếp đến thu tiền mua đất của vợ chồng Ký. Giâý mua bán đất giữa vợ chồng Ký và ông Nguyên văn Thanh là do ngũ cán bộ hoạt động cách mạng ở nhà bà viết hộ. Nhưng trong hồ sơ vụ án thể hiện tại Cơ quan điều tra và tại các phiên tòa bà Lãnh không khai về chi tiết này; còn anh Nguyễn Phước Lộc tại Cơ quan điều tra đã khai: biết bố tôi có đất ở đường Nguyễn Tri Phương, diện tích bao nhiêu tôi không rõ, việc mua bán đất tôi không biết bố tôi bán cho ai và bán vào năm nào (BL 592); ông Nguyễn Văn Thanh khai tại Cơ quan điều tra là sau khi bán đất cho bị cáo Ký, Ký chưa trả hết tiền nên vợ ông là Huỳnh Thị Ba liên tục đi đòi đến năm 1975 mới trả đủ (BL 613). Như vậy, lời khai của bà Lãnh, anh Lộc về việc trả tiền mua bán đất trước và sau không thống nhất, mâu thuẫn với lời khai của ông Nguyễn Văn Thanh. Về lời khai của bà Lãnh cho rằng giấy mua bán đất giữa vợ chồng bà và ông Nguyễn Văn Thanh là do người cán bộ hoạt động cách mạng ở nhà bà viết hộ, nhưng lời khai của ông Nguyễn Văn Thanh tại Cơ quan điều tra đều khẳng định giấy mua bán đất giữa ông và vợ chồng Ký do ông tự viết, ghi tên người mua là ông Năm Râu chứ không ghi tên Nguyễn Quan Ký vì ông không biết tên chính của Ký (BL 606, 613)l bị cáo Ký cũng thừa nhận giấy sang nhượng đất có trong hồ sơ vụ án (do bị cáo cung cấp) không phải giấy chính do bị cáo và ông Thanh lập (BL 837, 823). Như vậy, lời khai của bà Lãnh về giấy sang nhượng đất là không có cơ sở chấp nhận.

    - Ông Nguyễn Ngọc Thạch và ông Nguyên Văn Thơi cho biết bị cáo Ký có đất tại khu vực tôm càng xanh (ông Thạch còn vẽ được sơ đồ vị trí lô đất này). Đồng thời ông Võ Văn Láng khẳng định khi ông hoạt động cách mạng ở nhà bị cáo Ký biết ông Ký có đất ở đôi diện với nhà ông Ký (ở khu vực tôm càng xanh) , ông Láng còn tham gia đào đất làm ao sen cho ông Ký trên manh đất đó. Nhưng các xác nhận của ông Nguyễn Ngọc Thạch và ông Võ Văn Láng có trong hồ sơ án (các xác nhận này do Ký cung cấp cho cơ quan điều tra) đều thể hiện nội dung: hai ông có đổ đất cho bố ông Ký và ông Ký trên mảnh đất mua lại của ông Vũ Khắc Kinh thuộc khóm Xóm Rẫy, đường Nguyễn Tri Phương (đất này ở trong hẻm, phường 8; hai ông có vẽ sơ đồ đất kèm theo). Sau đó ông Thạch làm nhà ở trên lô đất này được cấp số nhà 165/21, đến năm 1975 ông trở về quê (BL 226, 237, 621). Tại Cơ quan điều tra hai ông đều khai bị cáo Ký có nhờ hai ông xác nhận để bổ túc hồ sơ xin lại lô đất mà ông Thạch đã làm nhà (số 165/21), các ông có xác nhận đã đổ đất cho bị cáo Ký trên phần đất này, phần đất này ở trong hẻm cách mặt đường Nguyễn Tri Phương 500 m, nằm ở phía sau căn nhà và đất có diện tích 1.700 m2 ở mặt đường Nguyễn Tri Phương của ông Ký (nhà và đất đã bán), không thấy bi cáo Ký có lô đất nào ở bên kia đường Nguyên Tri Phương đối diện với căn nhà bị cáo đã bán. Nếu bi cáo Ký lợi dụng xác nhân này để đánh tráo vào lô đất nào thì Ký Phải chịu trách nhiệm trước pháp luật (BL617. 618. 619. 6201) . Ngoài ra, ông Láng còn xác nhận vào đơn cho Ký không đúng sự thật (đơn viết năm 1998 nhưng lại xác nhận đơn viết năm 1987). Như vậy, lời khai của hai ông trước và sau không thống nhất và có những xác nhận không đúng thực tế.

    Về lời khai của ông Nguyễn Văn Thơi ngày 16-12-2005: Ông Thơi chỉ khai biết Ký có đất tại Vũng Tàu, chứ không khai Ký có đất tại khu vực Trại giống tôm càng xanh như nhận định tại kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

    Ông Huỳnh Văn Thanh cho biết: khi ông là Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phường Thắng Tam, đã vận động gia đình bị cáo Ký đi xây dựng vùng kinh tế mới. Trước khi đi, Ký có gửi lại phường trông coi hai mảnh đất ở bên đường Nguyên Tri Phương, ông là Chủ tịch phường có đứng ra nhận đất của ông Ký gửi để đi vùng kinh tế mới. Nhưng các xác nhận của ông Huỳnh Văn Thanh có trong hồ sơ vụ án (các xác nhận này do Ký cung cấp cho Cơ quan điều tra) thể hiện nội dung: Nguyễn Quan Ký có bán cho ông Khuông một căn nhà và đất có diện tích 1.700 m2 ở đường Nguyễn Tri Phương (phường 8), diện tích đất còn lại gửi phường để trở về quê sinh sống (BL 329, 409, 1692); các giấy xác nhận này đều không xác định vị trí và diện tích phần đất mà Ký gửi lại. Tại cơ quan điều tra ông Thanh khai: Nguyễn Quan Ký có nhờ ông xác nhận 03 lần, khi yêu cầu ông xác nhận thì Ký nói để bổ túc hồ sơ xin lại phần đất phía sau căn nhà đã bán cho ông Khuông chứ không nói để xin lai đây ở Trai giống tôm càng xanh, nêú bị cáo Ký lợi dụng xác nhận của tôi lìa Nhà nước để lâý tiền bồi hoàn đất đai ở Trại giống tôm càng xanh thì bị cáo vẫn chịu trách nhiệm. Ngoài ra, bị cáo Ký có nói với tôi có số đất ao ở phía bên kia đường Nguyễn Tri Phương (đối diện về căn nhà Ký đã bán cho ông Khương), tôi chỉ nghe nói và thấy ông chỉ tay bâng quơ chứ không ra thực địa, tôi chỉ xấc nhận lời ông nói chứ không khẳng định bị cáo Ký có đất ở đó (Trại giống tôm càng xanh) (BL 670, 671). Lời khai của ông Thanh tại Phòng địa chính thành phố Vũng Tàu cũng không xác định bị cáo Ký có đất ở Trại giống tôm càng xanh (BL 257). Tại phiên tòa sơ thẩm ông Thanh thay đổi lời khai cho rằng bị cáo Ký có đất ở Trại giống tôm càng xanh. Như vậy, lời khai của ông Thanh trước và sau không thống nhất, việc giao gửi đất giữa hai người chỉ nói miệng không có văn bản giấy tờ để chứng minh và không xác định rõ vị trí và diện tích phần đất gửi, nên không có căn cứ để chấp nhận lời khai lại sau này.

    - Ông Trần Ân nguyên Trưởng ấp ở vùng kinh tế mới từ năm 1975 xác nhận: bị cáo Ký có đến huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh (năm 1979) làm kinh tế mới khoảng 4-5 năm rồi đi nơi khác. Nhưng kết quả xác minh ngày 26-5-2003 của Cơ quan điều tra tại tàng thư hộ khẩu của Công an thành phố Vũng Tàu cho thấy các tài liệu như: đơn xin nhập khẩu, bản khai nhân khẩu xác nhận của Trưởng Công an phường, phiếu báo thay đổi hộ khẩu của gia đình Ký đều thể hiện gia đình bị cáo Ký trở về Vũng Tàu từ năm 1979; tại xác nhận ngày 15-5-2000 của Trưởng Công an xã Tân Tây, huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An là gia đình Ký về quê sống từ năm 1975 và trở lại Vũng Tàu năm 1980 (BL 304); tại đơn xin phục hồi quyền sử dụng đất ngày 24-9-1998 do Nguyễn Quan Ký viết cũng ghi rõ năm 1979 gia đình Ký về Vũng Tàu sinh sống (BL 292). Như vậy, căn cứ vào các tài liệu trên thì gia đình bị cáo Ký trở lại Vũng Tàu từ năm 1979 chứ không phải năm 1983 như Ký khai và cũng không phải như xác nhận của ông Ân.

    - Anh Nguyễn Phước Lộc là con hai ông Thanh (ông Thanh mất năm 2003) khai: năm 1971, bố anh có lô đất ở khu vực tôm càng xanh bán cho ông Ký 5.000 nm2 và ông Thử 5.000m2. Do ông Ký chưa thanh toán hê tiền nên anh Lộc nhiều lần đến nhà ông Ký đòi tiền mãi từ năm 1975 mới trả hết. Nhưng tại Cơ quan điều tra anh Nguyễn Phước Lộc đã khai biết bố tôi có đất ở đường Nguyễn Tri Phương, diện tích bao nhiêu tôi không rõ , việc mua bán đất tôi không biết bố tôi bán cho ai và bán vào năm nào (BL 592). Như vậy, lời khai của anh Lộc trước sau không thống nhất, nên không có căn cứ chấp nhận lời khai lại sau này.

    Như vậy, với những tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và các tài liệu do Viện kiểm sát nhân dân tối cao xác minh bổ sung thì không có căn cứ pháp lý để xác định Nguyễn Quan Ký có 5.000 m2 đất tại khu vực Trại giống tôm càng xanh. Cả Nguyễn Quan Ký và ông Nguyễn Văn Thanh đều thừa nhận giấy sang nhượng đất bưng có trong hồ sơ không phải là bản chính mà Ký và ông Thanh đã lập khi sang nhượng. Nhưng hai bên cũng không đưa ra được bản chính giấy sang nhượng này. Mặt khác, các bị cáo Nguyễn Quan Ký, Phan Văn Thông và Nguyễn Văn Mạnh đều thừa nhận với những giấy tờ mà Ký cung cấp về nguồn gốc lô đất là không đủ căn cứ pháp lý để xin phục hồi quyền sử uổng đất hoặc xin đền bù; nhưng Ký vẫn cấu kết với các bị cáo khác tạo dựng nhiều giấy tờ có nội dung không đúng sự thật để lừa dối các cơ quan chức năng, mua chuộc cán bộ có thẩm quyền giải quyết khiếu nại nhằm chiếm đoạt tài sản Nhà nước. Vì vậy, Tòa án cấp phúc thẩm và cấp sơ thẩm bác việc Nguyễn Quan Ký có đất tại khu vực Trại giống tôm càng xanh và kết án Nguyễn Quan Ký phạm tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là có căn cứ, đúng pháp luật.

    Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 1 Điều 285 Bộ luật tố tụng hình sự;

    QUYẾT ĐỊNH:

    Không chấp nhận kháng nghị giám đốc thẩm số01/QĐ-VKSTC-V3 ngày 09-01-2009 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cầm giữ nguyên bản án hình sự phúc thẩm số 749/HSPT ngày 07-4-2004 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đối với Nguyễn Quan Ký.

     

     
    4485 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận