Số hiệu
|
37/2010/DS-GĐT
|
Tiêu đề
|
Quyết định giám đốc thẩm xé xử vụ án dân sự "Tranh chấp về đòi nợ" giữa Công ty TNHH Hoou và Công ty Cổ phần Hải Cường
|
Ngày ban hành
|
17/08/2010
|
Cấp xét xử
|
Giám đốc thẩm
|
Lĩnh vực
|
Dân sự
|
Ngày 17 tháng 8 năm 2010, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự “tranh chấp về đòi nợ” giữa:
Nguyên đơn: Công ty TNHH Hoou, có trụ sở tại 3-1-21 Kanenokuma Hakata-Ku, Fukuoka-Shi, 816-0063, Japan; do ông Lê Quốc Thống, sinh ngày 04/10/1955; trú tại 205 N cư xá Thanh Đa, phường 27, quận Bình Thành, thành phố Hồ Chí Minh đại diện (theo giấy uỷ quyền của Giám đốc công ty TNHH Hoou ngày 02/5/2005).
Bị đơn: Công ty Cổ phần Hải Cường, có trụ sở tại 17 Lý Văn Phức, phường Tân Định, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh; do ông Nguyễn Quốc Diệp Sinh năm 1953 trú tại 70 Phường 2, thị xã Tân An, tỉnh Long An đại diện (theo giấy uỷ quyền số 64/2005 ngày 02/11/2005 của Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Cổ phần Hải Cường).
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: bà Narumi Morisaki (tức Phạm Thế Bảo) là Giám đốc hải ngoại của Công ty TNHH Hoou; trú tại 3-1-21 Kanenokuma Hakata-Ku, Fukuoka-Shi, 816-0063, Japan
(Địa chỉ liên hệ tại Việt Nam: 205 N cư xá Thanh Đa, phường 27, quận Bình Thành, thành phố Hồ Chí Minh).
NHẬN THÂY:
Tại đơn khởi kiện ngày 02/5/2005 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là Công ty TNHH Hoou (do ông Lê Quốc Thống đại diện theo uỷ quyền) trình bày:
Tại hợp đồng số 011604 ngày 16/01/2004, Công ty TNHH Hoou của Nhật Bản (sau đây gọi tắt là Công ty Hoou) bán cho Công ty Cổ phần Hải Cường (sau đây gọi tắt là Công ty Hải Cường) 06 chiếc xe bơm bê tông đã qua sử dụng, chất lượng xe 80%, tay lái nghịch, hiệu Mitsubishi, công suất l00m3/giờ, sản xuất năm 1997 với giá 600.000 USD (100.000 USD/1chiếc). Do sai năm sản xuất xe, nên ngày 09/3/2004 hai bên ký Phụ kiện hợp đồng, trong đó bên bán đồng ý giảm giá cho bên mua mỗi xe 35.000 USD x 6 xe = 210.000 USD; giá còn lại của 6 xe là 390.000 USD. Bên mua đã thanh toán lần đầu cho bên bán 180.000 USD; bên mua phải trả cho bên bán số tiền còn lại trong thời hạn 25 ngày kể từ ngày nhận được vận đơn (Bill of Lading) .
Khi làm thủ tục Hải quan để nhập khẩu xe về Việt Nam thì bị trở ngại vì Chính phủ Việt Nam không cho nhập xe tay lái nghịch đã qua chuyển đổi, nên Công ty Hoou phải thông qua con đường ngoại giao xin nhập khẩu 6 xe bơm bê tông này và được Chính phủ Việt Nam chấp thuận (tại Công văn số4913/VPCP-V1 ngày 15/9/2004 của Văn phòng Chính phủ Việt Nam); đồng thời Công ty Hoou chấp nhận giảm giá thêm cho Công ty Hải Cường 80.000 USD/giá trị 06 xe. Tiếp đó, Công ty Hải Cường lại nêu ra một số chi phí khác, nên ngày 15/11/2004 một lần nửa Công ty Hoou lại trừ thêm cho Công ty Hải Cường 23.000 USD.
Ngày 15/11/2004 hai bên lập "Biên bản thống nhất giải quyết 6 chiếc xe bơm bê tông", theo đó, Công ty Hải Cường còn phải thanh toán cho Công ty Hoou 107.000 USD; thời hạn thanh toán trong vòng 10 đến 14 ngày kể từ ngày 15/11/2004, nhưng từ đó đến nay Công ty Hải Cường vẫn chưa thanh toán.
Công ty Hoou yêu cầu Công ty Hải Cường thanh toán 107.000 USD và tiền lãi 121.900 USD, tổng số tiền là 228.980 USD. Tại phiên toà sơ thẩm ngày 27/4/2006, Công ty Hoou yêu cầu Công ty Hải Cường trả 167.885 USD (trong đó 107.000 USD tiền nợ mua 6 xe bơm bê tông; tiền lãi chậm trả 121.980 USD tính từ ngày 01/12/2004 đến 27/4/2006; tiền phạt do vi phạm hợp đồng là 33.600 USD).
Bị đơn là Công ty Cổ phần Hải Cường (do ông Nguyễn Quốc Diệp đại diện theo ủy quyền) trình bày:
Ngày 16/01/2004 Công ty Hải Cường ký kết hợp đồng số 011604 mua của Công ty Hoou 06 xe bơm bê tông tay lái thuận, hiệu Mitsubishi, sản xuất năm l997 với giá 600.000 USD. Công ty Hải Cường đã trả trước 180.000 USD và sẽ trả tiếp 270.000 USD khi xe được chuyển tới cảng thành phố Hồ Chí Minh, còn 150.000 USD được trả chậm trong vòng 2 năm kể từ ngày nhận xe với lãi suất l,5%/tháng. Sau khi ký kết hợp đồng, ngày 09/3/2004 Công ty Hải Cường kiểm định xe thì phát hiện xe sản xuất năm 1994 (không phải sản xuất năm 1997); nhãn hiệu NISSAN (không phải Mitsubishi), nên hai bên phải ký Phụ kiện hợp đồng thỏa thuận giá xe là 65.000 USD/1xe (65.000 USD x 6 xe = 390.000 USD).
Sau đó, Công ty Hoou cho nhập 6 xe này về Việt Nam thì bị Hải quan và Công an tạm giữ ngay vì các xe này tay lái nghịch; nên ngày 07/6/2004 hai bên lại ký biên bản thỏa thuận: Công ty Hoou bớt cho Công ty Hải Cường 80.000 USD trên tổng trị giá hợp đồng.
Ngày 15/11/2004 , Công ty Hoou và Công ty Hải Cường đã bàn bạc và lập "Biên bản thống nhất giải quyết 6 xe bơm bê tông" như san: Công ty Hoou bán cho Công ty Hải Cường 6 chiếc xe bơm bê tông theo hợp đồng 011604 ngày 16/01/2004; số tiền Công ty Hải Cường còn phải thanh toán cho Công ty Hoou là 107.000 USD. Ngày 25/3/2005 Công ty Hải Cường đã trả cho bà Phạm Thế Bảo (Giám đốc hải ngoại của Công ty Hoou) 107.000 USD. Hiện nay, Công ty Hải Cường không còn nợ tiền mua xe của Công ty Hoou nữa.
Tại Biên bản hoà giải ngày 28/10/2005 và Biên bản hòa giải ngày 22/11/2005, Công ty Hải Cường yêu cầu Công ty Hoou phải giao đủ 6 đầu ống cao su bơm bê tông như thỏa thuận giữa hai bên ngày 15/11/2004 nói trên; nếu Công ty Hoou không giao đủ 6 đầu ông cao su bơm bê tông này thì phải thanh toán cho Công ty Hải Cường 24.000 USD.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Phạm Thế Bảo trình bày: bà không nhận có nhận của Công ty Hoou 107.000 USD. Bà chỉ nhận 5.879.203 Yên Nhật do Công ty Hải Cường trả nợ cho Tổng giám đốc Công ty Hoou (đây là khoản tiền do Công ty Hải Cường vay của Công ty Hoou để lai dắt tàu và không tranh chấp trong vụ án này) vào ngày 25/3/2005; nhưng trong giấy biên nhận trả tiền này Công ty Hải Cường đã viết thêm dòng chữ: "Số tiền 107.000 USD trả cho tiền còn lại của 6 xe bơm bê tông" bằng mực mầu đỏ.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 389/2006/DSST ngày 27!4/2006, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quyết định:
1 - Chấp nhận một phần yêu cầu của Công ty TNHH Hoou, buộc Công ty cổ phần Hải Cường phải trả cho Công ty TNHH Hoou 123.274,70 USD bằng tiền đồng Việt Nam theo tỷ giá bình quân của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam quy định vào thời điểm trả tiền. Trong đó có nợ tiền mua 06 xe bơm bê tông là 107.000 USD và lãi phạt chậm trả từ ngày 01/12/2004 đến ngày 27/4/2006 là 16.274,70 USD.
2- Bác yêu cầu của Công ty TNHH Hoou trong việc yêu cầu Công ty cổ phần Hải Cường phải trả tiền phạt vi phạm hợp đồng theo mức 8% trên số tiền 420.000 USD thành tiền là 33.600 USD.
3- Đình chỉ việc giải quyết yêu cầu phản kiện của ty cổ phần Hải Cường trong việc yêu cầu Công ty TNHH Hoou phải giao cho Công ty cổ phần Hải Cường 06 (sáu) đầu ống cao su cần bỏm bê tông theo Biên bản thống nhất giải quyết 6 xe bơm bê tông ngày 15/11/2004.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 10/5/2006 ông Lê Quốc Thống (đại diện theo ủy quyền của Công ty Hoou) kháng cáo xin xét xử lại. Ngày 02/8/2006 ông Lê Quốc Thống rút kháng cáo.
Ngày 11/5/2006, Toà án cấp sơ thẩm giao bản án sơ thẩm cho Công ty Hải Cường. Ngày 18/5/2006, ông Nguyễn Quốc Diệp (đại diện theo ủy quyền của Công ty Hải Cường) kháng cáo đề nghị huỷ án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại.
Tại bản án phúc thẩm số 427/2006/DSPT ngày 06/10/2006, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định: Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Sau khi xét xử phúc thẩm, Công ty cổ phần Hải Cường có đơn khiếu nại bản án phúc thẩm nêu trên.
Tại Quyết định số565/2009/KN-DS ngày 05/10/2009, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số 427/2006/DSPT ngày 06/10/2006 của Toà phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ bản án phúc thẩm nêu trên và huỷ bản án dân sự sơ thẩm số 389/2006/DSST ngày 27/4/2006 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xứ sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ bản án phúc thẩm nêu trên và huỷ bản án dân sự sơ thẩm số 389/2006/DSST ngày 27/4/2006 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.
XÉT THẤY:
1. Ngày 15/1 1/2004 Công ty Hoou và Công ty Hải Cường ký kết "Biên bản thống nhất giải quyết 6 xe bơm bê tông" (theo hợp đồng số 011604 ngày 16/01/2004) có nội dung như sau: Công ty Hải Cường mua 6 xe bơm bê tông của Công ty Hoou và còn phải thanh toán cho Công ty Hoou 107.000 USD (thời hạn thanh toán số tiền này trong vòng từ 10 đến 14 ngay kể từ ngày 15/11/2004); Công ty Hoou tiền mua 6 đầu ống cao su bơm bê tông đã qua sử dụng gửi bằng đường biển sang cho Công ty Hải Cường (chi phí mua 6 đầu ông bơm bê tông do Công ty Hoou chịu, chi phí vận chuyển 6 đầu ống bơm bê tông do Công ty Hải Cường chịu). Như vậy, thỏa thuận mua 6 đầu ống cao su bơm bê tông là một phần bổ sung gắn liền với hợp đồng, không tách rời hợp đồng số 011604 ngày 16/01/2004 mà hai bên đã ký kết trước đây.
Công ty Hải Cường yêu cầu Công ty Hoou phải giao đủ 6 đầu ống cao su bơm bê tông theo "Biên bản thống nhất giải quyết 6 xe bơm bê tông" nêu trên; nếu không giao được thì phải thanh toán cho Công ty Hải Cường 24.000 USD. Đây không phải là phản tố của bị đơn. Lẽ ra phải xem xét, giải quyết yêu cầu này của Công ty Hải Cường, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm coi đây là yêu cầu phản tố để đình chỉ việc giải quyết yêu cầu này (với lý do Công ty Hải Cường đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm), đồng thời tuyên nộp vào Ngân sách Nhà nước số tiền tạm ứng án phí 14.333.000 đồng do Công ty Hải Cường nộp theo biên lai thu tiền số 000347 ngày 30/9/2005, là không đúng pháp luật. Tòa án cấp phúc thẩm không phát hiện được sai sót này của Tòa án cấp sơ thẩm và vẫn giữ nguyên bản án sơ thẩm cũng là không đúng.
2. Trong quá trình Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án, đương sự xuất trình các hợp đồng sau đây:
-"Hợp đồng dịch vụ môi giới” số 01/2003 ngày 19/11/2003 (môi giới mua bán xà lan hàng hải; bút lục 84) có nội dung: Công ty Hải Cường (bên A) môi giới cho Công ty Hoou (bên Bị bán cho Công ty cho thuê tài chính II - Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam 01chiếc xà lan hút cát và 01 chiếc tàu đẩy với giá 750.000 USD, số tiền môi giới bên B phải trả cho bên A là 280.000 USD.
-“Hợp đồng bán hàng" số 011604 ngày 16!01/2004 về việc Công ty Hoou bán cho Công ty Hải Cường 6 chiếc xe bơm bê tông với giá 600.000 USD.
Sau khi xét xử sơ thẩm, Công ty Hải Cường có đơn kháng cáo; đồng thời, quá trình Tòa án cao ljhúc thẩm giải quyết vụ án thì Công ty Hai Cường xuất trình thêm các hợp đồng sau đây:
-“Hợp đồng mua bán” số 01/2004/ HĐ ngày 12/01/2004 (các bút lục 228; 229; 230) có nội dung: Công ty Hoou bán cho Công ty Hải Cường một chiếc xà lan hút cát và 6 chiếc xe bơm bê tông đã qua sử dụng; giá cả thật sự mua chiếc xà lan này là 420.000 USD, trong đó Ngân hàng của bên mua (Công ty Hải Cường) đã chuyển cho Công ty Hoou 700.000 USD theo hợp đồng số 073104 (hợp đồng số 073104 không có trong hồ sơ vụ án), nên Công ty Hoou phải trả lại cho Công ty Hải Cường số tiền chênh lệch 280.000 USD; giá của 6 xe bơm bê tông là 390.000 USD thì Công ty Hải Cường đã trả trước 180.000 USD, còn lại 210.000 USD được khấu trừ như sau: Công ty Hoou phải trả lại cho Công ty Hải Cường 280.000 USD, Công ty Hải Cường phải trả cho Công ty Hoou 210.000 USD; đối trừ 2 khoản này thì Công ty Hoou còn phải trả cho Công ty Hải Cường 70.000 USD.
-“Hợp đồng mua bán" số 011604 ngày 16/01/2004 có nội dung: Công ty Hải Cường mua 6 xe bơm bê tông của Công ty Hoou (bút lục 234; 235; 236) với giá 65.000 USD/1xe x 6 xe = 390.000 USD; vì bên B (Công ty Hải Cường) có lợi nên hai bên đồng ý lập hợp đồng song hành cùng số hiệu và cùng ngày với giá 600.000 đô la Mỹ chỉ nhằm giúp bên mua xe tính toán với khách hàng tại Việt Nam, chứ không vì mục đích nêu trị giá để thanh toán; phụ lục hợp đồng và bản kê thanh toán đính kèm phải căn cứ vào hợp đồng này; Bên B chỉ phải trả cho bên A 180.000USD, không phải trả số tiền còn lại 210.000 USD, vì bên A còn thiếu của bên B 280.000 USD (do mua bán chiếc xà lan hút cát); đối trừ các khoản tiền này, thì bên A còn phải trả cho bên B 70.000 USD nữa.
Như vậy, theo hợp đồng dịch vụ môi giới ngày 19/ll/2003 nêu trên thì Công ty Hải Cường được Công ty Hoou trả 280.000 USD. Hổ sơ vụ án này có hai hợp đồng cùng số (011604) cùng ngày tháng năm (16/01/2004), nhưng lại khác nhau về điều kiện thanh toán và trách nhiệm thanh toán. Lẽ ra phải làm rõ từng hợp đồng do các đương sự xuất trình (khi Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết vụ án); hợp đồng nào được các bên thực hiện và hợp đồng nào không được thực hiện; các bên có thực hiện hợp đồng mua bán 01 chiếc xà lan và 06 xe bơm bê tông ngày 12/01/2004 hay không; việc đối trừ tiền cho nhau qua việc thực hiện các hợp đồng nói trên (nếu có); lý do của việc hai bên lập hợp đồng song hành (hai hợp đồng cùng số hiệu, cùng ngày tháng năm, nhưng khác nhan về giá mua bán 06 chiếc xe bơm bê tông)? Tòa án cấp phục thẩm chưa xem xét đầy đủ các vấn đề nêu trên, đặc biệt là chưa xem xét các hợp đồng do Công ty Hải Cường xuất trình (khi Tòa án cấp phúc thẩm đang giải quyết vụ án) là thiếu sót và chưa giải quyết triệt để vụ án.
3 . Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đã buộc Công ty Hải Cường phải trả cho Công ty Hoou tiền nợ mua 06 xe bơm bê tông là 107.000 USD và lãi là 16.274,70 USD (được quy ra tiền đồng Việt nam theo tỷ giá bình quân của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam quy định vào thời điểm trả tiền), nhưng lại chưa làm rõ hai công ty này có được thanh toán với nhau bằng ngoại tệ (đô la Mỹ) hay không?
Khi giải quyết lại vụ án cần xác định đây là vụ án tranh chấp về kinh doanh thương mại và áp dụng thống nhất các quy định pháp luật về tố tụng và nội dung để giải quyết đúng đắn vụ án.
Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 297 và khoản 2 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 427/2006/DSPT ngày 06/10/2006 của Toà Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 389/2006/DSST ngày 27/4/2006 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về vụ án tranh chấp về đòi nợ" giữa nguyên đơn là Công ty TNHH Hoou; bị đơn là Công ty Cổ phần Hải Cường; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Narumi Morisaki (tức Phạm Thế Bảo) .
2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.