Người độc thân vẫn hay được nói đùa bằng từ "F.A" (Forever Alone) được hiểu theo nghĩa đen là người chưa có ai yêu và vẫn đang còn cô đơn chưa lập gia đình (chưa kết hôn). Tuy nhiên, độc thân trong định nghĩa pháp lý cho rằng tình trạng giữa các cá nhân chưa kết hôn dù nằm trong độ tuổi hôn nhân hay đã làm thủ tục đám cưới và sống chung như vợ chồng nhưng chưa đăng ký giấy chứng nhận kết hôn thì vẫn được xem là người độc thân.
Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để cơ quan có thẩm quyền ra quyết định công nhận kết hôn theo phương diện pháp luật Việt Nam thừa nhận chế độ một vợ, một chồng, cũng như các giao dịch khác như mua bán, thừa kế, chuyển nhượng, nhập hộ khẩu... Vậy, làm thế nào để được xem là người độc thân?
Các trường hợp được xem là độc thân
Hiện nay, để được xem là độc thân thì chẳng ai phải đi chứng minh với người khác cả, tuy nhiên để người độc thân có quyết định kết hôn và đăng ký giấy chứng nhận kết hôn từ chính quyền. Thì cần phải xác nhận tình trạng độc thân để đảm bảo rằng việc kết hôn là hợp pháp và tuân thủ nguyên tắc tại khoản 1 Điều 2 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 là hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng. Để được xem là người độc thân và được quyền đăng ký giấy chứng nhận kết hôn hiện nay cơ bản bao gồm 03 trường hợp sau:
(1) Người chưa đăng ký kết hôn lần nào
Người chưa làm thủ tục đăng ký kết hôn lần nào thì được xem là người độc thân kể cả trong trường hợp đã làm đám cưới hay sống chung như vợ chồng mà chưa đăng ký giấy chứng nhận kết hôn.
Trừ trường hợp tại khoản 2 Điều 44 Nghị định 123/2015/NĐ-CP về trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích và tạo điều kiện để đăng ký kết hôn. Quan hệ hôn nhân được công nhận kể từ ngày các bên xác lập quan hệ chung sống với nhau như vợ chồng. Thẩm quyền, thủ tục đăng ký kết hôn được thực hiện theo quy định tại Điều 17 và Điều 18 Luật Hộ tịch 2014.
Hiện nay, rất nhiều trường hợp sống chung như vợ chồng, là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng nhưng không ký giấy chứng nhận kết hôn. Với nhiều lý do có thể là do sống thử, do tác động của xu hướng toàn cầu hóa khiến người trẻ không còn muốn kết hôn mà chỉ thích độc thân nhưng vẫn muốn đáp ứng nhu cầu cá nhân hoặc ảnh hưởng của một số phong tục tập quán vùng cao vẫn chưa được phổ cập pháp luật,.. Điều này dẫn đến nhiều hệ lụy khi phát sinh vấn đề khi sống chung.
Qua đó, để làm các thủ tục pháp lý như đăng ký kết hôn; hay mua bán đất đai, đi lao động nước ngoài… Thì người độc thân cần xin giấy xác nhận tình trạng hôn nhân (giấy chứng nhận tình trạng độc thân) do UBND xã, phường, thị trấn, nơi người yêu cầu thường trú cấp.
Mục đích chính của người độc thân đăng ký giấy chứng nhận này nhằm:
– Đăng ký kết hôn.
– Mua bán bất động sản khi muốn chứng minh là tài sản riêng.
– Để sử dụng vào mục đích khác như mua bán, giao dịch bất động sản,…
Như vậy, để được xem là người độc thân đối với người chưa kết hôn lần nào được hưởng các quyền lợi như người đã lập gia đình hoặc sắp thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn thì cần phải làm giấy chứng nhận xác nhận độc thân.
(2) Người đã ly hôn vợ/chồng
Trường hợp người đã ly hôn vợ hoặc chồng nhưng có nhu cầu đi thêm “bước” nữa thì cần làm gì để được làm thủ tục đăng ký giấy chứng nhận kết hôn tiếp tục?
Theo quy định pháp luật, đối tượng này vẫn cần phải làm thủ tục xác nhận tình trạng hôn nhân, điều này theo khoản 2 Điều 22 Nghị định 123/2015/NĐ-CP có quy định như sau: trường hợp người yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân đã có vợ hoặc chồng nhưng đã ly hôn thì cần phải xuất trình giấy tờ hợp lệ để chứng minh, nếu thuộc trường hợp tại khoản 2 Điều 37 Nghị định 123/2015/NĐ-CP thì cần nộp bản sao trích lục hộ tịch.
Giấy tờ hợp lệ để được xem là độc thân trong trường hợp này, thì người đó phải có xuất trình được Bản án/Quyết định ly hôn của Tòa án đã có hiệu lực.
(3) Người có vợ/chồng chết hoặc mất tích
Trong trường hợp người có vợ hoặc chồng mất tích thì người này có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố mất tích để thực hiện thủ tục xin ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn theo Điều 68 Bộ luật Dân sự 2015 và các quy định về hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, để đáp ứng điều kiện này thì phải tuân thủ quy định về thời gian tuyên bố khi một người biệt tích 02 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ thì Tòa án có thể tuyên bố người đó mất tích.
Ở trường mà người có vợ hoặc chồng chết thì trường hợp này bao gồm luôn cả người mất tích thì phải thuộc một trong các điều kiện sau mới được Tòa án tuyên bố chết:
- Sau 03 năm kể từ ngày tuyên bố mất tích.
- Biệt tích 05 năm sau chiến tranh.
- 02 năm sau tai nạn thảm họa, thiên tai.
- Biệt tích sau 05 năm mà không có xác thực là còn sống.
Khi người có vợ/chồng thuộc 02 trường hợp chết hoặc mất tích thì cần phải có quyết định tuyên bố người đã chết hoặc mất tích được gửi từ Tòa án cho UBND cấp xã nơi cư trú. Sau khi có giấy tờ chứng minh thì người này có thể làm giấy chứng nhận độc thân để có thể tiếp tục thực hiện việc kết hôn với người tiếp theo.
Như vậy, để được xem là người độc thân cũng cần phải thực hiện việc chứng minh theo thủ tục pháp lý một cách hợp pháp nhằm đảm bảo các nguyên tắc về hôn nhân và gia đình từ đó có thể thực hiện các hoạt động pháp lý khác.