Thuật ngữ “giết người đền mạng” đã xuất hiện từ ngàn đời nay, có thời kỳ nó được coi như chân lý; đó là lẽ đương nhiên hợp với lòng người. Nhưng có thời kỳ nó không được nhận định xác nghĩa như vậy; và cụ thể tại Bộ luật hình sự hiện hành của nước ta không phải lúc nào giết người cũng phải chịu hình phạt cao nhất là tử hình, mà cần phải dựa vào từng tình huống và hoàn cảnh cụ thể. Thiết nghĩ, với quy định của pháp luật hình sự hiện hành như vậy là tương đối phù hợp. Ở đây, chỉ là tương đối bởi trong suy nghĩ của các nhà làm luật vẫn còn “đọng lại” thuật ngữ “giết người đền mạng” mà đa số nhân dân nghĩ đó là chân lý sống. Tôi không phê phán những quan điểm đó của các nhà làm luật, và đông đảo quần chúng nhân dân; nhưng tôi cho rằng thuật ngữ “giết người đền mạng” đó là cái đúng của quá khứ còn hiện tại nó không hợp thời nữa. Hay nói một cách thật chuẩn xác theo dòng suy nghĩ của tôi là “ nên bỏ hình phạt tử hình trong bộ luật hình sự hiện hành”. Bởi những lẽ sau:
1. Bảo đảm tính nhân đạo
Án tử hình còn tồn tại bởi nhà làm luật còn cho rằng: bị cáo bị tuyên án tử hình không còn khả năng đào tạo được và cần cách ly vĩnh viễn đối tượng này ra khỏi đời sống xã hội nhằm duy trì, bảo vệ trật tự xã hội được ổn định và tốt đẹp. Chúng ta có thể cảm nhận lòng nhiệt tình của các nhà làm luật trong công cuộc bảo vệ an toàn và quyền lợi chung cho xã hội. Nhưng thiết nghĩ, những tư tưởng đấy không còn phù hợp tại thời điểm hiện nay.
Một là, hành vi nguy hiểm của cá nhân có thể cải tạo được bởi: Khi một cá nhân sinh ra, cá nhân đó chỉ có các hành vi bản năng tự nhiên không nguy hại. Chỉ khi cá nhân tham gia vào cộng đồng, cá nhân đó mới từng bước hình thành các hành vi có ý thức. Hành vi phạm tội của cá nhân cũng là một trong những hành vi có ý thức. Mà tất cả hành vi có ý thức đều có thể cải tạo được vì hành vì đó chỉ hình thành khi cá nhân tham gia vào một số mối quan hệ trong cộng đồng khi cá nhân sống. Do đó, bất cứ hành vi phạm tội nào của cá nhân cũng đều có thể cải tạo được. Chúng ta cần xem lại: “môi trường xã hội có tác động gì đến hành vi nguy hiểm của cá nhân hay không?”
Hai là, cách ly vĩnh viễn đối tượng ra ngoài xã hội còn nhiều cách khác “êm ái” hơn. Hiện nay, bất cứ cộng đồng nào trên thế giới cũng có đủ điều kiện và khả năng để cách ly một cá nhân nguy hiểm khỏi đời sống của nó mà vẫn đảm bảo được các quyền con người tối thiểu. Mỗi quốc gia đều có đủ khả năng phân biệt rõ hành vi nào là hành vi nguy hiểm, khả năng theo dõi và bắt giữ các cá nhân nguy hiểm và khả năng kiểm soát các cá nhân nguy hiểm trong một phạm vi địa lý nhỏ để họ không còn gây nguy hiểm cho xã hội. Vậy tại sao ta không sử dụng những cách đó để cách ly vĩnh viễn đối tượng ra ngoài xã hội mà không cần lấy đi quyền sống thiêng liêng của họ. Làm như vậy sẽ phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội, đồng thời bảo đảm được tính nhân đạo – truyền thống nhân văn bao đời của dân tộc ta.
2. Không trái với quy luật tự nhiên
Một quy luật bất biến của cuộc sống không ai có thể phủ nhận được đó là sinh – lão – bệnh – tử. Con người được sinh ra do cha, mẹ nhưng suy cho cùng đó cũng là theo quy luật tất yếu của đời sống tự nhiên theo bản năng sinh tồn và duy trì nguồn gen mà bất cứ loài nào cũng có chứ không phải chỉ ở xã hội loài người mới có. Và ai đã nuôi dưỡng sự sống đó, chắc chắn không phải là xã hội mà do tự nhiên; và thực tiễn đã chứng minh được rằng sự sống đã tồn tại khi chưa có loài người xuất hiện. Chính vì lẽ đó, mà thức ăn để nuôi sống một thực thể con người tất cả đều từ tự nhiên mà ra; có thể đưa dinh dưỡng sẵn có trong tự nhiên hoặc thông qua cải tạo những dinh dưỡng đó để duy trì sự sống cho cá nhân. Tóm lại, những việc đó chỉ là phương tiện để tự nhiên duy trì sự sống cho loài người theo bản năng chứ không phải do xã hội sản sinh và nuôi dưỡng.
Chính vì xã hội không phải là “đấng quyền lực tối cao sinh ra con người, và chẳng có giây phút nào nuôi dưỡng con người” nên không thể có quyền từ bỏ mạng sống ấy. Hay nói một cách chuẩn xác nhất là không ai có quyền lấy đi mạng sống thiêng liêng của con người do tạo hóa đã ban tặng ngoại trừ thiên nhiên mới có quyền tước bỏ. Nếu chúng ta làm trái quy luật ấy sẽ là mâu thuẫn với đời sống tự nhiên, vi phạm quyền cơ bản của con người.
3. Tránh “chết oan” người vô tội
Oan sai là điều không thể tránh khỏi trong hoạt động xét xử ở bất cứ quốc gia nào, thời đại lịch sử nào. Nó tồn tại như là tính tất yếu trong hoạt động xét xử. Đó cũng là lẽ đương nhiên, bởi việc điều tra và xét xử chỉ được tiến hành sau khi có một tội phạm thực hiện. Phán quyết tòa án dựa trên những chứng cứ do cơ quan điều tra thu thập được, kèm theo kết quả của quá trình tranh tụng. Nên không ai có thể dám chắc những chứng cứ đó đã thu thập hoàn toàn đầy đủ; không những có trường hợp bị cáo không thể chứng minh được những sự kiện có lợi cho mình cho dù sự kiện đó là có thật. Mà một điều cảnh báo là tỉ lệ oan sai tại Việt Nam hiện nay không phải là ít, bởi hoàn cảnh khách quan lẫn chủ quan. Với những lẽ đó, tôi thiết nghĩ giả định Tòa án đã tuyên và thi hành án tử hình một người thì làm sao khắc phục được hậu quá đó nếu theo thời gian xuất hiện căn cứ mới chứng minh họ vô tội (tuyên án sai). Tôi cho rằng khi đã tuyên án tử hình và thi hành án đó thì có giải oan được cho người đã chết thì việc giải oan cũng trở nên vô nghĩa. Vấn đề đặt ra ở đây là ai sẽ là chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại và bồi thường thiệt hại bằng cách nào khi một sinh mạng đã mất. Ta dễ dàng thấy được theo dòng tư duy logic thì Nhà nước phải chịu trách nhiệm ở đây, bởi Tòa tuyên án thì nhân danh Nhà nước chứ không phải nhân danh chính mình. Chẳng qua Tòa án chỉ hoàn thành công việc do Nhà nước giao. Nhưng thực tế thì không phải vậy, thông thường người đại diện cơ quan xét xử đứng ra xin lỗi công khai. Đây chẳng khác nào “có phúc cùng hưởng có họa tự chịu”, điều đó làm cho người dân nghi ngờ vào lẽ “công bằng”. Không chỉ dừng ở đó mà chúng ta tự nghĩ những lời xin lỗi công khai và “món tiền hậu hĩnh” có thể làm cho người chết sống lại được hay không? Chắc trong chúng ta ai cũng biết đáp án. Nhưng tại sao nhà làm luật không bỏ hình phạt tử hình, đó là biện pháp hữu hiệu để tránh giết oan người vô tội, đồng thời tránh được sự bất bình của người thân của người “tử oan” và quần chúng nhân dân. Làm cho nhân dân tin yêu, tôn trọng và tuân thủ pháp luật hơn.
4. Ngăn ngừa tội phạm
Có phải duy trì án tử hình sẽ giảm được tội phạm hay không? Những tội phạm nghiêm trọng xảy ra ở khắp mọi nơi trên thế giới và không phụ thuộc vào việc quốc gia đó có duy trì án tử hình hay không. Nhiều kẻ tội phạm biết chắc là cái gì sẽ chờ mình nếu bị bắt và kết án, nhưng không vì thế mà “rút tay” khi hành động. Ở cả quốc gia duy trì án tử hình, tỷ lệ tội phạm về án tử hình ngày càng tăng mạnh và không có chiều hướng giảm. Có thể nêu ra ví dụ điển hình về nước láng giềng của chúng ta là: Trung Quốc vào năm 2009 dẫn đầu thế giới về số lượng án tử hình. Theo số liệu của tổ chức Hands Off Cain của Italia, trong năm 2009, tại Trung Quốc đã thi hành gần 5000 án tử hình. Đứng thứ hai là Iran, với 402 vụ. Tiếp tới là Iraq -75 vụ, tăng gấp đôi trong những năm gần đây. Tại Mỹ, có 52 vụ tử hình được thi hành. Một dẫn chứng nữa cho thấy, không phải cứ có án tử hình thì tội phạm nghiêm trọng giảm, không có án tử hình thì tội phạm nghiêm trọng tăng. Ở Canada, nước bãi bỏ án tử hình từ năm 1976, kể từ đó đến nay, tỷ lệ tội giết người đã giảm 40%.
Vậy đâu là căn nguyên của tội phạm ngày càng tăng khi không phải do sự tồn tại của án tử hình hay không. Theo tôi đó là vấn đề an ninh, an ninh có mối quan hệ biện chứng với tội phạm; an ninh tốt sẽ là trở ngại đối với tội phạm và ngược lại. Nhưng an ninh của một quốc gia phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, mà điều quan trọng chủ yếu chính là việc thực thi pháp luật một cách nghiêm minh. Chính việc thực thi pháp luật không nghiêm minh mới làm cho an ninh xấu đi. Pháp luật không được thực thi nghiêm minh tất yếu sẽ dẫn đến dung dưỡng cho những hành vi sai trái. Thực tế trên thế giới cho thấy, ở đâu pháp luật được thực thi nghiêm minh thì ở đó an ninh ổn định. Các nước Bắc Âu, Bắc Mỹ và Tây Âu là dẫn chứng điển hình cho trường hợp trên. Vậy ngay từ lúc bây giờ, chưa phải là thời điểm quá trễ để chúng ta có các biện pháp đảm bảo an ninh tốt hơn; và quan trọng, cấp thiết nhất đó là việc thực thi pháp luật một cách nghiêm nhưng mềm dẻo. Tránh mù quán mà cho rằng do quá ít án tử hình nên tội phạm tăng. Hay nói một cách khác là cần phải có một tư duy mới trong thời đại hiện nay, tử hình không phải là biện pháp ngăn chặn tội phạm mà cũng chẳng phải là biện pháp hữu hiệu nhất thể hiện mục đích của hình phạt.
5. Phù hợp với pháp luật quốc tế
Hiện nay có tới 135 nước đã bãi bỏ án tử hình, 62 nước vẫn còn duy trì án tử hình, thường là để trừng trị những kẻ sát nhân. Tuy nhiên, không thể tìm ra bất kỳ tiêu chí nào về địa lý, văn hoá, chính trị, kinh tế, tôn giáo … để phân biệt 135 nước bãi bỏ và 62 nước duy trì án tử hình. Hầu hết các nước đang áp dụng án tử hình đều cho rằng là phải áp dụng bản án nặng nề nhất này để bảo đảm an ninh, an toàn cho cộng đồng. Còn các nước không duy trì án tử hình thì lại cho rằng tử hình là vi phạm vào quyền sống của con người. Ở đây chúng ta đã thấy có sự xuất hiện của hai trường phái quan niệm khác nhau về án tử hình. Cả hai đều có lẻ riêng của mình, nhưng tại sao án tử hình chỉ còn tồn tại khoảng 30% ở các quốc gia trên thế giới; trong khi những xuất phát điểm của tất cả các nước trên thế giới đều tồn tại hình phạt tử hình. Vậy suy cho cùng, đây là quy luật khách quan tất yếu của thời đại không thể chối từ. Vì sớm hay muộn thì các quốc gia còn lại cũng phải bỏ án tử hình để phù hợp với đại đa số những nước đã bỏ nó. Bởi án tử không còn chỗ đứng trong thời điểm hiện nay cũng như mai sau bởi vai trò của nó không còn, nếu còn thì chúng ta đã thay thế nó bằng các hình thức khác hợp lý hơn như đã trình bày ở trên và các phần tiếp theo trong bài viết này.
6. Hình phạt tương đương tử hình
Các nhà làm luật và đa số quần chúng nhân dân đều lo ngại “bỏ án tử thì được nhưng liệu có án nào tương tự để thay thế nó hay không”. Những sự lo ngại đấy, nhiều nước trên thế giới đã giải quyết được. Như chúng ta đã biết, mục đích của án tử hình là loại bỏ hành vi nguy hiểm cho xã hội bằng cách tước bỏ sự sống của chủ thể hành vi nguy hiểm. Tuy nhiên, để loại bỏ hành vi nguy hiểm không nhất thiết phải loại bỏ chủ thể của nó bởi vì hành vi nguy hiểm có thể được loại bỏ bằng nhiều cách khác như thay đổi ý thức của chủ thể, loại bỏ điều kiện thực hiện hành vi nguy hiểm, cách ly hoàn toàn chủ thể nguy hiểm khỏi cộng đồng v.v. Nếu cộng đồng nhận thấy hành vi nguy hiểm cần phải loại bỏ hoàn toàn khỏi cộng đồng thì có thể cách ly chủ thể nguy hiểm cho đến khi người đó chết. Như vậy, việc thay thế án tử hình bằng một chế tài khác là việc hoàn toàn có thể thực hiện được. Ví dụ nhiều nước ngày nay đã thay thế án tử hình bằng án chung thân không được khoan hồng. Trong thời phong kiến, pháp luật quy định hình phạt lưu đày biệt xứ cũng là một kiểu cách ly hoàn toàn chủ thể nguy hiểm khỏi cộng đồng. Tại sao ở giai đoạn kinh tế, xã hội,… chưa phát triển như thời điểm hiện nay mà thời phong kiến đã làm được vậy còn hiện nay thì không? Ý nói vậy, không phải trong hiện tại chúng ta phải thay hình thức tử hình bằng hình thức lưu đày mà thay nó bằng án chung thân không được khoan hồng như một số nước đã làm chẳng hạn. Nếu làm được như vậy, thì tuyên án tử sai vẫn có cơ hội khắc phục được hậu quả đồng thời bảo đảm được quyền sống thiêng liêng của con người.
v Kết lời
Không cần thiết, hay nói đúng hơn là đầy nguy hại nếu còn duy trì án tử hình trong thời điểm hiện nay tại nước ta. Bởi bỏ án tử hình sẽ đảm bảo được tính nhân đạo, hợp với quy luật của tự nhiên, tránh giết oan người vô tội, ngăn ngừa được tội phạm và phù hợp với pháp luật đa số các nước trên thế giới. Đồng cùng với điều 27 bộ luật hình sự hiện hành của nước ta có quy định: “Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm”. Từ đó có thể suy ra mục đích chính của hình phạt không phải là trừng trị mà là giáo dục cải tạo người phạm tội để họ trở thành người có ích cho xã hội. Vì vậy, không có lý do gì mà hình phạt tử hình vẫn còn tồn tại; trong khi mọi hành vi phạm tội của cá nhân cũng đều có thể cải tạo được (như đã trình bày ở trên). Vậy sự tồn tại của án tử hình trong pháp luật hình sự là trái với quy định tại điều 27 của bộ luật hình sự hiện hành. Việc bỏ án tử hình không chỉ là loại bỏ sự trái ngược trong bộ luật hình sự hiện hành mà còn phù hợp với đòi hỏi chính đáng của thực tiễn.
Ngày 03 tháng 11 năm 2010