Luật Bồi thường nhà nước ở Canada!

Chủ đề   RSS   
  • #17381 16/07/2008

    hacom2579

    Lớp 7

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:15/05/2008
    Tổng số bài viết (100)
    Số điểm: 9776
    Cảm ơn: 0
    Được cảm ơn 4 lần


    Luật Bồi thường nhà nước ở Canada!

    Nhân dịp Quốc hội VN đang lấy ý kiến cho dự thảo LUẬT BỒI THƯỜNG NHÀ NƯỚC, gửi các thành viên một số quy định của Luật Bồi thường nhà nước CANADA.

    Bài viết của Cao Đăng Vinh, Vụ PL Dân sự - Kinh tế, Bộ Tư pháp, đăng trên trang thongtinphapluatdansu!

    Ngày 14 tháng 5 năm 1953, Luật về Trách nhiệm Nhà nước (Crown Liability Act) của Liên bang Canada được ban hành có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định trách nhiệm của Nhà nước đối với tất cả các loại thiệt hại do vi phạm ngoài hợp đồng gây ra do lỗi cố ý vi phạm cũng như do những lỗi bất cẩn của các cơ quan/công chức Nhà nước. Luật đã đi theo hướng xác định Nhà nước có thể phải chịu trách nhiệm về thiệt hại do cơ quan/công chức của mình gây ra như các cá nhân khác theo quy định của pháp luật dân sự nói chung. Năm 1990, Luật về Trách nhiệm Nhà nước được sửa đổi thành Luật về Thủ tục và Trách nhiệm Nhà nước (Crown Liability and Proceedings Act). Luật này bao gồm Lời nói đầu, giải thích thuật ngữ và 2 phần, với tổng số 36 điều (section). Bên cạnh đó, Chính phủ Canada cũng ban hành Quy định hướng dẫn các nguyên tắc và thủ tục liên quan đến thủ tục tố tụng ở Toà án cấp bang theo quy định tại Phần II của Luật về Thủ tục và Trách nhiệm Nhà nước. Trên cơ sở các quy định chung của Liên bang, nhiều bang cũng ban hành Luật riêng hướng dẫn như bang Manibota ban hành Luật về Thủ tục khởi kiện Nhà nước năm 1990, bang Ontario ban hành Luật về Thủ tục khởi kiện Nhà nước năm 1990 (được sửa đổi năm 1994, 1997, 2004), bang Nova Scotia ban hành Luật về Thủ tục khởi kiện Nhà nước năm 1989 (được sửa đổi năm 1991), ...

    Một điều đáng chú ý, để hỗ trợ cho nạn nhân bị thương tật hoặc chết do hành vi tội phạm gây ra (bao gồm cả tội phạm do công chức nhà nước gây ra trong khi thi hành công vụ), ở các bang của Canada đã thiết lập các Quỹ đền bù cho nạn nhân của tội phạm. Về cơ sở pháp lý, rất nhiều bang đã ban hành đạo luật riêng quy định việc đền bù tổn thất, thiệt hại cho nạn nhân do tội phạm gây ra. Ví dụ, bang Alberta ban hành Luật về nạn nhân của tội phạm (Victims of Crime Act) năm 1997 (sửa đổi năm 2000); bang Ontario ban hành Luật về bồi thường cho nạn nhân của tội phạm (Compensation for Victims of Crime Act) năm 1990 … Xét ở góc độ nhất định, đây cũng là một hình thức bồi thường Nhà nước, vì vậy, sẽ đề cập trong nghiên cứu này. Mô hình tương tự này cũng có thể thấy trong pháp luật của Hoa Kỳ và nhiều nước ở Châu Mỹ.

    1. Về phạm vi các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước chịu sự điều chỉnh của pháp luật về trách nhiệm bồi thường nhà nước

    Nghiên cứu quy định của Luật Thủ tục và Trách nhiệm Nhà nước của Canada, không thấy có một sự hạn chế nào về phạm vi bồi thường Nhà nước đối với các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước, là lập pháp, hành pháp hay tư pháp. Theo quy định tại Điều 3 của Luật này thì Nhà nước chịu trách nhiệm đối với những thiệt hại gây ra do lỗi của những cơ quan/công chức thừa hành công vụ mà không xác định đây là cơ quan/công chức làm việc trong lĩnh vực nào. Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được xác định như một loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, theo đó, Nhà nước sẽ chịu trách nhiệm như một cá nhân đối với những thiệt hại do vi phạm ngoài hợp đồng gây ra bởi cơ quan/công chức thừa hành công vụ của mình gây ra. Ngoài ra, Điều 3 Luật này cũng mở rộng phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với những thiệt hại gây ra do sự vi phạm trong việc nắm giữ, chiếm giữ, sở hữu tài sản hoặc từ hoạt động của các tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc dưới sự chiếm giữ của Nhà nước. Cũng theo Điều 8 của Luật này thì Nhà nước không phải chịu trách nhiệm trong trường hợp vì mục đích bảo vệ đất nước hoặc hoạt động huấn luyện và duy trì quân đội.

    Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là tổ chức, cá nhân bị thiệt hại có thể kiện đòi Nhà nước bồi thường thiệt hại trong mọi lĩnh vực hoạt động của mình. Như trên đã đề cập, việc xác định trách nhiệm của Nhà nước được thiết lập như một loại trách nhiệm ngoài hợp đồng, tức là theo luật tư. Theo án lệ, nguyên tắc của luật công đã dành cho cơ quan công quyền miễn trừ khỏi yêu cầu bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong một số trường hợp cụ thể. Theo đó, một số quyết định của cơ quan công quyền sẽ không là đối tượng khởi kiện theo luật tư, cụ thể[1]:

    - Quyết định về lập pháp, xét xử và các quyết định có tính chất như pháp luật;

    - Quyết định mang tính chính sách (trái với các loại quyết định điều hành cụ thể)

    - Quyết định khởi tố, truy tố.

    Như vậy, có thể thấy, việc bồi thường ngoài hợp đồng của Nhà nước được miễn trừ trong hai lĩnh vực lập pháp và tư pháp. Việc không quy định kiện đòi bồi thường thiệt hại trong tố tụng hình sự là nhằm phù hợp với tính chất độc lập trong hoạt động xét xử, cần tạo cho thẩm phán tự tin khi ra phán quyết, không e sợ việc có thể bị kiện đòi bồi thường khi có sai lầm trong việc ra phán quyết. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa, những trường hợp bị tổn thất, thiệt hại do hậu quả của các quyết định trong lĩnh vực lập pháp và tư pháp thì không được đền bù. Tổn thất, thiệt hại gây ra trong các lĩnh vực này thì không phải là đối tượng bị khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại theo Luật này nhưng vẫn có thể được đền bù theo các cơ chế khác như: cơ chế đền bù hình sự, cơ chế đền bù cho nạn nhân tội phạm tại các bang. 

    2. Về chủ thể của quan hệ bồi thường nhà nước

    Theo quy định tại điều 3 của Luật về Thủ tục và Trách nhiệm Nhà nước thì Nhà nước sẽ chịu trách nhiệm về những thiệt hại gây ra do lỗi của cơ quan/công chức Nhà nước, hoặc những thiệt hại gây ra do hoạt động của một vật thuộc sự chiếm giữ hoặc sở hữu của Nhà nước hoặc gây ra do lỗi của Nhà nước với tư cách là người chiếm giữ hoặc chủ sở hữu. Với quy định tại Điều 3 của Luật thì trách nhiệm của Nhà nước dường như được hiểu là trách nhiệm thay thế, mà không phải là trách nhiệm trực tiếp đối với những hành vi sai trái của cơ quan/công chức Nhà nước[2]. Điều này có thể thấy rõ khi Điều 10 của Luật đã quy định, để xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước thì người khởi kiện phải chứng minh có đủ căn cứ pháp lý để khởi kiện bản thân cơ quan/công chức Nhà nước đã thực hiện hành vi sai trái. Tức là phải chứng minh cơ quan/công chức Nhà nước đã có hành vi lạm dụng công quyền hoặc có nghĩa vụ cẩn trọng trong hành động với người khởi kiện nhưng đã vi phạm nghĩa vụ cẩn trọng đó dẫn đến gây thiệt hại cho người khởi kiện. Như vậy, theo quy định của Luật thì để xác lập trách nhiệm bồi thường của Nhà nước thì trước hết phải xác lập được trách nhiệm bồi thường của chính bản thân cơ quan/công chức đã có hành vi vi phạm.

    Trong lĩnh vực hình sự, khi một người bị buộc tội oan, Nhà nước Liên bang và chính quyền các bang có thể xem xét việc đền bù thiệt hại cho người bị oan. Tuy nhiên, do quan niệm đây chỉ là chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với nạn nhân nên có thể nói, mặc dù, Nhà nước thực hiện chi trả khoản tiền nhưng vấn đề Nhà nước có phải chịu trách nhiệm không cũng còn không rõ ràng. Riêng trường hợp nạn nhân bị thương tật hoặc xâm phạm tính mạng do hành vi tội phạm của công chức nhà nước gây ra thì có thể nói, Canada không thừa nhận trách nhiệm Nhà nước đối với các hành vi trái pháp luật này. Bản thân người có hành vi phạm tội phải chịu trách nhiệm, Nhà nước chỉ thành lập các Quỹ để thực hiện chính sách hỗ trợ cho nạn nhân mà thôi.

    3. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường nhà nước

    Do quan niệm trách nhiệm bồi thường của Nhà nước như là một loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nên quy định về cơ sở phát sinh trách nhiệm của Nhà nước cũng được tương tự như yêu cầu khởi kiện bồi thường thiệt hại trong pháp luật dân sự thông thường. Tức là phải có đủ các yếu tố: (1) Có hành vi trái pháp luật; (2) Có lỗi cố ý hoặc vô ý; (3) Có thiệt hại xảy ra; (4) Có quan hệ nhân quả giữa hành vi và thiệt hại đã xảy ra.

    Trách nhiệm bồi thường thiệt hại gây ra do lỗi bất cẩn được thiết lập nếu người khiếu nại chứng minh được rằng pháp luật có quy định nghĩa vụ cẩn trọng trong hoạt động công vụ và công chức Nhà nước đã có sự vi phạm nghĩa vụ cẩn trọng, có mối quan hệ nhân quả giữa vi phạm nghĩa vụ cẩn trọng và thiệt hại xảy ra[3]

    Trách nhiệm bồi thường trong trường hợp lạm dụng công quyền được xác lập với điều kiện người thực hiện hành vi vi phạm phải là công chức Nhà nước, hành vi gây ra thiệt hại phải liên quan trực tiếp đến việc thực hiện thẩm quyền hoặc quyền lực đã được pháp luật quy định và hành vi vi phạm phải là cố ý[4].

    Theo quy định tại Điều 13 của Luật về Thủ tục và Trách nhiệm Nhà nước thì trách nhiệm bồi thường Nhà nước do tài sản thuộc sở hữu Nhà nước gây ra được xác lập khi có căn cứ xác định Nhà nước hoặc người nhân danh Nhà nước trên thực tế đã có sự kiểm soát về mặt vật lý (đối với bất động sản) hoặc có sự chiếm giữ (đối với bất động sản).

    Trong lĩnh vực hình sự, vấn đề đền bù hậu quả của các bản án có sai lầm được thực hiện như một chính sách của Nhà nước, không phải là đối tượng áp dụng của Luật này. Vì vậy, điều kiện phát sinh vấn đề đền bù thiệt hại trong trường hợp này được đặt ra khi có thiệt hại xảy ra đối với người bị truy tố, xét xử oan mà không đòi hỏi bản thân nhân viên điều tra, công tố viên, thẩm phán có thực hiện hành vi trái pháp luật hay không? Người bị buộc tội oan nhưng sau đó được xác định là vô tội thì có thể được Nhà nước xem xét đền bù thiệt hại. Tuy nhiên, trong trường hợp công chức nhà nước, trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử có hành vi vi phạm pháp luật đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì có thể bị truy tố, xét xử theo các tội phạm về chức vụ được quy định trong Bộ luật Hình sự. Khi đó người bị thiệt hại có thể được đền bù thiệt hại từ nguồn Quỹ đền bù cho nạn nhân của tội phạm. Ví dụ, Điều 5 Luật Đền bù nạn nhân của tội phạm ở bang Ontario quy định: Bất kỳ người nào bị thương tật hoặc bị chết do hoặc liên quan đến hành vi truy lùng người phạm tội hoặc người bị nghi phạm tội; trợ giúp nhân viên an ninh thực thi công vụ; ngăn ngừa hành vi phạm tội ... thì bản thân hoặc người đại diện có thể yêu cầu đền bù thiệt hại.

    4. Các loại thiệt hại được bồi thường

    Nghiên cứu quy định của Luật về Thủ tục và Trách nhiệm Nhà nước ở Canada, không thấy có một quy định nào hạn chế về các loại và mức thiệt hại được bồi thường, ngoại trừ quy định giới hạn mức bồi thường trong trường hợp xâm phạm bí mật cá nhân. Điều này hoàn toàn dễ hiểu vì Luật này có tính chất là một Luật điều chỉnh về thủ tục nên vấn đề loại và mức thiệt hại được bồi thường không được đặt ra. Việc kiện đòi bồi thường đối với Nhà nước được thực hiện như một vụ kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nên phạm vi thiệt hại được bồi thường sẽ được xác định thông qua xét xử của Toà án. Pháp luật trao quyền cho các Thẩm phán quyết định mức bồi thường thiệt hại, bao gồm cả thiệt hại về tinh thần và thiệt hại về vật chất, cũng như chi phí khác mà người bị thiệt hại và gia đình phải bỏ ra để khôi phục thiệt hại, miễn là yêu cầu bồi thường thiệt hại được xác định là có căn cứ và hợp lý trong phạm vi khả năng thanh toán của ngân sách nhà nước (Điều 9).

    Trong lĩnh vực hình sự, việc đền bù thiệt hại cho người bị oan sai dường như cũng không có một quy định cứng về các khoản và mức thiệt hại được bồi thường. Theo một tài liệu mà chúng tôi có được thì nhiều yếu tố sau đây có thể được xem xét khi tính toán mức đền bù thiệt hại, tổn thất cho người bị buộc tội oan như: việc bị mất tự do; mất sự nổi tiếng; bị làm nhục hoặc ghét bỏ; đau đớn về thể xác và tinh thần; mất cơ hội hưởng thụ cuộc sống; mất cơ hội làm một điều bình thường (như xây dựng gia đình); mất cơ hội phát triển trí tuệ như đào tạo, bồi dưỡng kiến thức trong công việc; mất cơ hội thực hiện các quyền dân sự; mất cơ hội giao lưu với bạn bè, hàng xóm và gia đình; việc bị đánh đập bởi bạn tù và nhân viên quản giáo; việc phải chịu các quy định hà khắc của nhà tù; việc chịu oan ức khi phải ngồi tù; những ảnh hưởng có thể có trong tương lai đối với nạn nhân, đặc biệt trong các vấn đề kết hôn, địa vị xã hội, sức khoẻ thể xác và tinh thần, các quan hệ xã hội nói chung[5].

    Phạm vi thiệt hại được đền bù từ quỹ đền bù nạn nhân của tội phạm cũng được thực hiện khá rộng. Ví dụ, theo Điều 7 Luật về đền bù nạn nhân của tội phạm ở bang Otanrio thì các khoản thiệt hại có thể được đền bù bao gồm: chi phí thực tế và hợp lý phải gánh chịu do hậu quả của việc nạn nhân bị thương tật hoặc bị chết; mất mát về tài chính mà nạn nhân phải gánh chịu do bị mất một phần hoặc toàn bộ khả năng lao động trong công việc hiện có; mất mát về tài chính mà người phụ thuộc nạn nhân (vợ, chồng, cha, mẹ, con, anh, chị, em và họ hàng) phải gánh chịu do việc nạn nhân bị chết; sự đau đớn về thể xác và tinh thần; hỗ trợ cho trẻ sinh ra từ hậu quả của hành vi hiếp dâm; bất kỳ khoản mất mát nào khác về tài chính phát sinh từ việc nạn nhân bị thương tật và bất kỳ chi phí nào khác mà Uỷ ban cho rằng là hợp lý. Như vậy, có thể nói, với quy định này, quy định của pháp luật cũng chỉ mang tính minh hoạ mà không cứng nhắc, mức bồi thường như thế nào là hợp lý được giao cho người có thẩm quyền quyết định. Nghiên cứu pháp luật các bang cho thấy, có bang không quy định cụ thể hình thức và mức đền bù như bang Alberta; nhưng có bang quy định hình thức đền bù có thể là đền bù một lần hoặc định kỳ hoặc cả hai hình thức mà Uỷ ban thấy hợp lý và mức đền bù được khống chế theo một khung nhất định như bang Ontario. 

    5. Điều kiện phát sinh và nội dung trách nhiệm bồi hoàn của công chức đối với nhà nước

    Luật về Thủ tục và Trách nhiệm Nhà nước Canada không có quy định khẳng định mang tính nguyên tắc chung cho trách nhiệm bồi hoàn của công chức đối với Nhà nước. Trong Luật về Thủ tục và Trách nhiệm Nhà nước, chỉ có duy nhất quy định về trách nhiệm bồi hoàn của công chức đối với Nhà nước trong trường hợp Nhà nước đã bồi thường thiệt hại do công chức có vi phạm quyền bí mật cá nhân được quy định tại Điều 17, 18. Điều 20 của Luật đã quy định công chức phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước về khoản bồi thường thiệt hại mà Nhà nước đã thanh toán theo quyết định của Toà án và Nhà nước có quyền yêu cầu công chức phải hoàn trả cho Nhà nước khoản tiền này. Dường như do quan niệm công chức nhà nước là người thực thi nhiệm vụ nhân danh Nhà nước (là người làm thuê cho Nhà nước) nên vấn đề xử lý trách nhiệm bồi hoàn của công chức nhà nước đối với Nhà nước được điều chỉnh riêng bởi pháp luật về công vụ mà chúng tôi chưa có điều kiện tìm hiểu cụ thể. Tuy nhiên, theo một tài liệu mà chúng tôi có được thì vấn đề bồi hoàn của công chức/viên chức nhà nước cho Nhà nước cũng đã được đặt ra ở Canada[6]. Theo đó, khi Nhà nước phải bồi thường cho bên thứ ba cho những thiệt hại hoặc vì nguyên nhân khác mà công chức/viên chức nhà nước được xác định có trách nhiệm thì phải bồi hoàn cho Nhà nước một phần hoặc toàn bộ khoản tiền mà Nhà nước đã trả và sẽ được khấu trừ dần vào tiền lương. Việc khấu trừ tiền lương sẽ không được thực hiện một cách tuỳ tiện nếu chưa được sự chấp nhận của công chức đó và phải được sự phê chuẩn của Trưởng cơ quan thuế. Khi công chức nhà nước không thực hiện việc hoàn trả trong thời gian hợp lý đã định thì cơ quan quản lý công chức có trách nhiệm báo cáo Tổng chưởng lý để tiến hành các thủ tục pháp lý tiếp theo để bảo đảm cho việc hoàn trả. Sau khi vụ việc đã được đưa đến Bộ Tư pháp mà công chức vẫn không thừa nhận trách nhiệm của bản thân thì vụ việc sẽ được đưa ra Toà án, khi đó việc hoàn trả sẽ được thực hiện theo thủ tục đòi nợ thông thường.

    6. Thủ tục thực hiện việc bồi thường nhà nước

    6.1. Về thủ tục khởi kiện yêu cầu bồi thường theo quy định của Luật về Thủ tục và Trách nhiệm Nhà nước.

    Thủ tục bồi thường theo Luật này có một số điểm đáng chú ý sau đây:

    - Theo quy định tại Điều 21 của Luật thì Toà án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền giải quyết yêu cầu khởi kiện Nhà nước bồi thường thiệt hại. Toà án có thẩm quyền là Toà án cấp cao của từng bang nơi xảy ra vụ việc, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền của Toà án liên bang. Toà án của bang sẽ không có thẩm quyền giải quyết nếu vụ việc đã được thụ lý bởi Toà án liên bang, bất kể trước hay sau khi Toà án thụ lý vụ việc.

    - Theo Điều 23 của Luật, đối với thủ tục khởi kiện yêu cầu bồi thường theo Luật này thì cơ quan đại diện cho Nhà nước đứng ra trước Toà án để giải quyết là Tổng chưởng lý Canada hoặc trong trường hợp cơ quan Nhà nước là bị đơn thì chính cơ quan đó phải ra trước Toà án. Đơn yêu cầu sẽ được nộp trực tiếp đến Phó tổng chưởng lý hoặc chính người chịu trách nhiệm quản lý cơ quan bị khởi kiện. Điều 4 văn bản hướng dẫn của Chính phủ đã có quy định cụ thể địa chỉ nộp đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại phù hợp với từng khu vực: văn phòng của Phó tổng chưởng lý ở Ottawa, Giám đốc cơ quan tư pháp khu vực ...

    - Theo hướng dẫn tại Điều 5 trong văn bản của Chính phủ, Tổng chưởng lý phải có văn bản trả lời yêu cầu trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận đơn, hoặc trong thời hạn quy định ở từng bang, trường hợp có thời hạn dài hơn thì phải được sự chấp thuận của Toà án. Hướng dẫn của Chính phủ cũng quy định rõ (Điều 9):

    + ở bất kỳ giai đoạn nào của thủ tục tố tung, Tổng chưởng lý có thể gửi đến Toà án văn bản chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện;

    + Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo về việc chấp nhận yêu cầu khơỉ kiện, người khởi kiện phải nộp văn bản cho Phó tổng chưởng lý về việc đồng ý hay không đồng ý với nội dung chấp nhận yêu cầu khơỉ kiện. Trong trường hợp đồng ý, Toà án sẽ quyết định khoản bồi thường một cách hợp lý trong từng vụ việc trên cơ sở hai bên thoả thuận.

    + Trong trường hợp người khởi kiện thông báo không đồng ý với nội dung chấp nhận yêu cầu khởi kiện hoặc không có văn bản trả lời trong thời hạn quy định thì vụ việc sẽ được xét xử theo thủ tục thông thường.

    - Trên cơ sở bản án có hiệu lực của Toà án về giải quyết yêu cầu đòi Nhà nước bồi thường, Bộ trưởng Bộ Tài chính có trách nhiệm thanh toán các khoản bồi thường theo bản án từ nguồn ngân sách nhà nước cho người bị thiệt hại (Điều 30).

    - Tương tự như pháp luật dân sự nói chung có quy định về thời hiệu khởi kiện. Điều 32 Luật này khống chế thời hiệu khởi kiện yêu cầu Nhà nước bồi thường thiệt hại là 6 (sáu) năm kể từ khi phát sinh căn cứ khởi kiện.

    6.2. Về thủ tục đền bù khi có sai lầm trong bản án hình sự

    Bộ luật Hình sự Canada năm 1985 có dành một chương quy định về việc xem xét lại bản án, quyết định hình sự của Toà án. Theo đó, người cho rằng mình bị buộc tội oan hoặc đại diện của người đó có thể gửi đơn yêu cầu Bộ trưởng Bộ Tư pháp sẽ tiến hành điều tra, xem xét lại tính đúng đắn của bản án mà Toà án đã tuyên. Theo đánh giá của một quan chức của Bộ Tư pháp Canada thì hàng năm, Bộ Tư pháp nhận được trung bình khoảng 30 đơn yêu cầu xem xét lại bản án hình sự[7]. Bộ trưởng Bộ Tư pháp sẽ tiến hành nghiên cứu vụ việc, tham vấn ý kiến của Toà án phúc thẩm và ra quyết định trả lại đơn yêu cầu hoặc đề nghị Toà án xét xử lại vụ việc khi có những căn cứ nghi ngờ đã có sai lầm nghiêm trọng khi xét xử vụ án. Vấn đề đền bù thiệt hại sẽ có thể được đặt ra khi Toà án tuyên bố vô tội đối với phạm nhân. Tuy nhiên, hiện nay, pháp luật Canada chưa có văn bản nào quy định cụ thể về vấn đề đền bù thiệt hại cho người buộc tội oan mà chủ yếu thực hiện theo án lệ[8]. Qua nghiên cứu, chúng tôi thấy, các bang ở Canada thường thành lập một Hội đồng để xem xét việc đền bù thiệt hại cho người bị oan, nguồn tài chính dành cho việc đền bù không phải từ một quỹ tập trung mà thường lấy từ ngân sách của bang, của Liên bang nhưng cũng không có định mức tỷ lệ cụ thể.

    6.3. Thủ tục đền bù từ quỹ đền bù nạn nhân của tội phạm

    Đối với người là nạn nhân của tội phạm công vụ thì có thể được nhận đền bù từ nguồn Quỹ đền bù nạn nhân tội phạm của các bang được hình thành từ ngân sách của các bang. Ngoài ra, nguồn hình thành quỹ cũng rất đa dạng tuỳ theo từng bang như: thu từ tiền phạt đối với người có hành vi phạm tội, lệ phí thu theo Luật này, khoản hỗ trợ nạn nhân theo cam kết với chính quyền liên bang .... ở từng bang khác nhau, Quỹ này có thể được đặt dưới sự quản lý thống nhất của cơ quan tư pháp, cơ quan tài chính từng bang.

    Hiện nay, mỗi bang đều đã ban hành riêng luật để điều chỉnh việc đền bù cho nạn nhân của tội phạm nhưng nhìn chung, trong thủ tục đền bù có những điểm cơ bản như sau:

    - Việc xem xét đền bù thiệt hại cho nạn nhân được thực hiện bởi một Uỷ ban về đền bù nạn nhân của tội phạm được thành lập với số lượng thường không ít hơn 5 người, do Thống đốc bang (Lieutenant Governor in council) chỉ định. 

    - Uỷ ban tiếp nhận đơn yêu cầu sẽ tiến hành phiên họp công khai (trừ trường hợp Uỷ ban xét thấy cần họp kín) để xem xét đơn yêu cầu với sự tham gia của người nộp đơn, Tổng chưởng lý, người phạm tội (nếu có thể) và bất kỳ người nào khác có lợi ích liên quan đến yêu cầu. 

    - Nếu Uỷ ban xét thấy người yêu cầu có khả năng được đền bù thì Uỷ ban có thể quyết định đền bù tạm thời đối với chi phí chữa bệnh, chi phí mai táng và khoản đền bù tạm thời này sẽ không bị thu hồi dù sau đó Uỷ ban quyết định người yêu cầu không được đền bù.

    - Uỷ ban sẽ ra quyết định đền bù cho người có yêu cầu không phụ thuộc vào việc có hay không có người thực hiện hành vi dẫn đến gây thương tật hoặc cái chết cho nạn nhân có bị truy tố hay buộc tội hay không.

    - Uỷ ban sẽ ra quyết định về việc đền bù trên cơ sở cân nhắc mọi yếu tố, kể cả những hành vi của nạn nhân có ảnh hưởng đến việc gây ra thương tật và cái chết của nạn nhân; sự hợp tác của người có yêu cầu trong quá trình giải quyết ...

    - Việc đền bù theo thủ tục này không cản trở người yêu cầu thực hiện việc khởi kiện dân sự để yêu cầu bồi thường thiệt hại do thương tật hoặc cái chết gây ra. Tuy nhiên, người yêu cầu phải có trách nhiệm thông báo cho Uỷ ban về việc tiến hành thủ tục khởi kiện dân sự và Uỷ ban có thể thu hồi lại khoản đền bù mà người yêu cầu đã được thanh toán theo thủ tục khởi kiện dân sự thông thường
     
    7227 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận
  • #17382   18/07/2008

    Leelawyer
    Leelawyer

    Male
    Sơ sinh

    Bà Rịa - Vũng Tàu, Việt Nam
    Tham gia:28/04/2008
    Tổng số bài viết (30)
    Số điểm: 115
    Cảm ơn: 2
    Được cảm ơn 3 lần


    Rất cảm ơn thông tin của bạn
     
    Báo quản trị |  
  • #17383   23/07/2008

    lethigam_ms
    lethigam_ms
    Top 200
    Lớp 1

    Đăk Lăk, Việt Nam
    Tham gia:03/04/2008
    Tổng số bài viết (423)
    Số điểm: 2783
    Cảm ơn: 0
    Được cảm ơn 82 lần


    Giới thiệu Luật Bồi thường nhà nước ở Trung Quốc.

    Ngày 12 tháng 5 năm 1994, nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đã ban hành Luật Bồi thường nhà nước (sau đây gọi tắt là Luật Bồi thường nhà nước Trung Quốc), đạo luật này có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 1995. Luật Bồi thường nhà nước Trung Quốc được chia làm 6 chương với 35 điều, trong đó:

    - Chương 1: “Những quy định chung” gồm 2 điều (Điều 1 và 2) quy định về mục đích và nguyên tắc bồi thường nhà nước.

    - Chương 2: “Bồi thường hành chính” gồm 12 điều (từ Điều 3 đến Điều 14) quy định về trách nhiệm bồi thường tổn thất do các cơ quan hành chính khi thực thi nhiệm vụ gây ra.

    - Chương 3: “Bồi thường tư pháp” gồm 10 điều (từ Điều 15 đến Điều 24) quy định trách nhiệm bồi thường tổn thất do cơ quan, người tiến hành tố tụng (điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự) gây ra.

    - Chương 4: “Hình thức và cách xác định bồi thường” gồm 9 điều (từ Điều 25 đến Điều 33) quy định về hình thức và cách xác định mức bồi thường.

    - Chương 5: “Điều khoản thi hành” gồm 2 điều (Điều 34 và 35) quy định việc không thu lệ phí, án phí, thuế đối với người yêu cầu đòi bồi thương và quy định hiệu lực của Luật.

    Việc ban hành Luật Bồi thường nhà nước Trung Quốc nhằm mục đích: (1) bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân và các tổ chức khác khi cơ quan nhà nước không thực thi đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật; (2) khuyến khích các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức thực thi đúng nhiệm vụ, quyền hạn  theo quy định của pháp luật. Điều này cũng có nghĩa là, việc ban hành Luật Bồi thường nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng một nhà nước pháp quyền ở Trung Quốc, đảm bảo nguyên tắc pháp chế trong tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong xã hội, theo đó, không chỉ cá nhân, pháp nhân và các tổ chức xã hội mà còn tất cả các cơ quan công quyền cũng phải có trách nhiệm tôn trọng, tuân thủ pháp luật. Với việc ban hành Luật này thì Nhà nước Trung Quốc đã thừa nhận và chịu trách nhiệm bồi thường đối với tổn hại thực tế do hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình thực thi công vụ của cơ quan nhà nước và nhân viên cơ quan nhà nước gây ra cho công dân, pháp nhân hay tổ chức khác. Loại trách nhiệm bồi thường này là một loại trách nhiệm pháp luật đặc thù, không hoàn toàn giống với bồi thường dân sự vì trong trường hợp này Nhà nước đứng ra chịu trách nhiệm bồi thường cho đương sự, trong khi đó bồi thường dân sự lại dựa trên nguyên tắc “người nào vi phạm, người đó phải bồi thường”.

    1. Về phạm vi bồi thường nhà nước

    Luật Bồi thường nhà nước Trung Quốc quy định bồi thường trong lĩnh vực hành pháp và tư pháp. Luật không quy định bồi thường trong lĩnh vực lập pháp và cũng không quy định bồi thường trong các hoạt động quân sự. Trong lĩnh vực hành pháp và tư pháp, Luật Bồi thường nhà nước Trung Quốc cũng chỉ quy định một số hành vi cụ thể và chỉ trong những trường hợp đó thì Nhà nước mới thực hiện bồi thường.

    1.1. Phạm vi bồi thường hành chính:

    Điều 3 và điều 4 Luật Bồi thường nhà nước Trung Quốc quy định cơ quan nhà nước và nhân viên cơ quan nhà nước trong quá trình thi hành công vụ nếu có hành vi vi phạm pháp luật gây tổn hại về tài sản, quyền nhân thân cho cá nhân, pháp nhân hay tổ chức khác thì nhà nước phải chịu trách nhiệm bồi thường. Cụ thể trong các trường hợp là: (1) áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính, bắt giữ người trái pháp luật hoặc hạn chế quyền tự do thân thể của công dân trái pháp luật; (2) Giam giữ hoặc dùng các biện pháp khác tước đoạt quyền tự do thân thể của công dân trái pháp luật; (3) Có hành vi bạo lực như ẩu đả hoặc xui khiến người khác bạo động, đánh người gây ra thương tích hoặc tử vong; (4) Sử dụng vũ khí trái phép gây ra thương tích hoặc tử vong cho công dân; (5) Các hành vi khác gây ra thương tích hoặc tử vong cho công dân; (6) áp dụng các biện pháp xử phạt hành chính như phạt tiền, thu hồi giấy phép hành nghề, thu hồi giấy phép kinh doanh, ra lệnh đình chỉ sản xuất, tịch thu giữ tài sản trái pháp luật; (7) áp dụng các biện pháp chế tài hành chính đối với tài sản như niêm phong, thu giữ tài sản trái pháp luật; ( Trưng thu tài sản, phân bổ chi phí trái quy định của pháp luật; (9) Những hành vi vi phạm khác gây ra tổn thất tài sản. Bên cạnh đó, Điều 5 của Luật quy định nhà nước không chịu trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại trong những trường hợp là: (1) Hành vi cá nhân của nhân viên cơ quan hành chính không liên quan đến việc thi hành chức quyền; (2) Hành vi của bản thân công dân, pháp nhân và các tổ chức khác tự gây tổn thất cho mình; (3) Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.

    1.2. Phạm vi bồi thường tư pháp:

    Phạm vi bồi thường tư pháp được quy định tại Điều 15, Điều 16, Điều 17 và Điều 31. Theo đó, nội dung bồi thường tư pháp sẽ do 2 loại: Một là, bồi thường hình sự (Điều 15, Điều 16, Điều 17); hai là, bồi thường tố tụng hành chính, dân sự (Điều 31). Cụ thể trong những trường hợp là: (1) Giam giữ sai đối với người bị tình nghi phạm tội nhưng chưa có dấu hiệu thực tế hoặc chưa có chứng cứ thực tế là tội phạm; (2) Bắt giữ sai đối với những người chưa thực sự phạm tội; (3) Xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm được Toà án tuyên là vô tội, nhưng đã chấp hành hình phạt đã tuyên; (4) Có các hành vi bạo lực như bức cung, đánh đập hoặc sai người khác dùng các hành vi bạo lực làm bị thương hoặc chết người; (5) Sử dụng vũ khí, máy móc trái pháp luật gây ra thương tích hoặc chết người; (6) áp dụng các biện pháp trái pháp luật như niêm phong, thu giữa tài sản; (7) Xét xử lại bản án theo trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm được Toà án tuyên là vô tội nhưng đã chấp hành việc phạt tiền hoặc đã bị tịch thu tài sản. Đồng thời, Điều 17 quy định nhà nước không chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong những trường hợp: (1) Công dân cố ý khai sai sự thật hoặc tạo chứng cứ giả để bị coi là có tội, để bị bắt và bị truy cứu trách nhiệm hình sự; (2) Những trường hợp bắt giam người không phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 14, Điều 15 Bộ luật Hình sự; (3) Những trường hợp bắt giam người không phải truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 11 Luật Tố tụng hình sự; (4) Những hành vi cá nhân của nhân viên cơ quan nhà nước có chức năng điều tra, truy tố, xét xử, quản lý trại giam hoặc nhân viên của cơ quan này không liên quan đến việc thực thi nhiệm vụ; (5) Công dân tự mình gây ra thương tật hoặc có hành vi cố ý gây ra tổn thất đối với bản thân mình; (6) Những trường hợp khác theo quy định của pháp luật.

    Tuy nhiên, Luật Bồi thường nhà nước Trung Quốc lại chưa quy định bồi thường nhà nước trong lĩnh vực công hữu công cộng. Những nội dung liên quan đến bồi thường trong lĩnh vực này thuộc phạm vi bồi thường dân sự theo quy định tại Điều 126 của “Những nguyên tắc cơ bản của Luật Dân sự nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa”.

    2. Về điều kiện bồi thường nhà nước

    Luật Bồi thường nhà nước Trung Quốc quy định việc bồi thường nhà nước khi có đủ các điều kiện sau:

    - Về chủ thể: Chủ thể gây tổn hại phải là cơ quan nhà nước và nhân viên cơ quan nhà nước; người bị gây tổn hại là cá nhân, pháp nhân và các tổ chức khác.

    - Về hành vi vi phạm pháp luật: Hành vi đó phải liên quan trực tiếp đến quá trình thực thi công vụ của cơ quan nhà nước và nhân viên của cơ quan nhà nước.

    - Hành vi vi phạm pháp luật phải dựa trên cơ sở yếu tố lỗi và hành vi này phải được quy định rõ trong các văn bản pháp luật, pháp quy hành chính (có căn cứ pháp lý).

    - Có tổn thất thực tế xãy ra: Kết quả của tổn thất phải do hành vi vi phạm pháp luật trực tiếp gây ra, nghĩa là giữa tổn thất và hành vi vi phạm pháp luật phải có mối quan hệ nhân quả.

    3. Về cơ quan có nghĩa vụ bồi thường nhà nước

    - Luật Bồi thường nhà nước Trung Quốc quy định: Cơ quan nhà nước và nhân viên của cơ quan nhà nước nào gây ra tổn hại cho cá nhân, pháp nhân hay tổ chức khác thì cơ quan nhà nước đó có trách nhiệm bồi thường cho đối tượng bị tổn hại.

    Như vậy, pháp luật Trung Quốc quy định cơ quan có nghĩa vụ bồi thường nhà nước theo mô hình “phân tán”. Tuy nhiên, thực tiễn hơn 10 năm thực thi Luật Bồi thường nhà nước cho thấy hệ thống cơ quan này đã tồn tại một số vấn đề hạn chế và nếu so sánh với việc thiết kế cơ quan có nghĩa vụ bồi thường theo mô hình “tập trung” thì nó tỏ ra kém hiệu quả hơn. Bởi vì, mô hình “tập trung” tạo ra một hệ thống cơ quan và nhân viên chuyên nghiệp phụ trách thực hiện việc bồi thường nhà nước. Ngoài ra, mô hình này còn có thể bảo vệ một cách tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người yêu cầu bồi thường, vì nó có đặc điểm là người có quyền yêu cầu bồi thường không cùng người xâm hại trực tiếp gặp nhau mà do cơ quan được pháp luật quy định thực hiện thay, nên khi xử lý việc bồi thường sẽ tránh được tình trạng “xử lý nội bộ”.

    - Pháp luật Trung Quốc quy định việc giải quyết bồi thường nhà nước trong lĩnh vực hành chính cho các đương sự được thực hiện theo 2 cách là giải quyết theo thủ tục hành chính và/hoặc giải quyết theo thủ tục tố tụng. Đối tượng bị tổn hại có thể làm đơn yêu cầu cơ quan hành chính trực tiếp gây tổn hại bồi thường, nếu cơ quan hành chính này giải quyết không thoả đáng thì đương sự có thể đề nghị cơ quan hành chính cấp trên trực tiếp của cơ quan hành chính này giải quyết bồi thường (trình tự, thủ tục theo quy định của Luật tố tụng hành chính nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa) hoặc có thể đề nghị Toà án nhân dân có thẩm quyền giải quyết (Toà dân sự).

    Việc giải quyết bồi thường hành chính tại Toà án nhân dân được thực hiện theo trình tự, thủ tục tố tụng thông thường, nhưng cũng có một số đặc điểm đặc thù. Tính đặc thù này được biểu hiện chủ yếu ở chỗ: Toà án nhân dân khi giải quyết vụ kiện bồi thường nhà nước đầu tiên phải xem xét việc xử lí bồi thường của cơ quan có nghĩa vụ bồi thường có đúng hay không; đương sự trong vụ kiện mà 1 bên là cơ quan hành chính (trong khi đó nhân viên cơ quan hành chính gây ra tổn hại không phải là bị cáo trong quá trình tố tụng); trên phương diện chứng cứ, tố tụng bồi thường nhà nước chủ yếu do người yêu cầu bồi thường chứng minh chứng cứ và cơ quan hành chính thông thường sẽ phủ nhận trách nhiệm (trong khi đó bồi thường dân sự mà các bên đương sự chủ trương giảm nhẹ trách nhiệm bồi thường).

    - Trường hợp cơ quan hành chính và nhân viên cơ quan hành chính vì ban hành các quy định hành chính mà gây tổn hại cho cá nhân, pháp nhân hay tổ chức khác thì việc giải quyết bồi thường nhà nước đầu tiên phải xem xét tính hợp pháp của các quy định hành chính đó. Việc phán quyết tính hợp pháp của quy định hành chính sẽ do cơ quan hành chính cấp trên trực tiếp cơ quan hành chính ban hành quy định đó giải quyết, nếu cơ quan hành chính cấp trên giải quyết không thoả đáng thì sẽ do cơ quan quyền lực nhà nước có thẩm quyền giải quyết (Đại hội đại biểu nhân dân địa phương). Pháp luật Trung Quốc chưa quy định cho cơ quan Tư pháp (Toà án nhân dân) việc phán quyết tính hợp pháp của quy phạm pháp luật hay pháp quy hành chính mà Toà án nhân dân chỉ có thẩm quyền xác nhận tính hợp pháp của hành vi hành chính trong phạm vi điều chỉnh của Luật Bồi thường nhà nước.

    4. Về phương thức, tiêu chuẩn bồi thường nhà nước

    4.1. Phương thức bồi thường nhà nước:

    Trung Quốc quy định phương thức bồi thường bằng tiền là phương thức chủ yếu trong bồi thường nhà nước, đó là việc cơ quan có nghĩa vụ bồi thường căn cứ vào các quy định của pháp luật, đem tổn thất do việc xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của người bị hại quy đổi thành một lượng tiền nhất định. Phạm vi bồi thường thiệt hại bằng tiền mặt tương đối rộng, bao gồm bồi thường tổn thất về tài sản và phi tài sản.

    Ngoài ra, Luật Bồi thường nhà nước Trung Quốc còn quy định: Khôi phục nguyên trạng, hoàn trả nguyên hiện vật, loại trừ ảnh hưởng, khôi phục danh dự, xin lỗi và nhận lỗi,… làm những phương thức bổ sung trong lĩnh vực bồi thường nhà nước.

    4.2. Tiêu chuẩn bồi thường nhà nước:

    Về mặt lý luận, trong một quốc gia, quan hệ giữa tiêu chuẩn bồi thường nhà nước và tiêu chuẩn bồi thường dân sự xảy ra ba trường hợp: Một là, tiêu chuẩn bồi thường nhà nước cao hơn tiêu chuẩn bồi thường dân sự; hai là, tiêu chuẩn bồi thường nhà nước bằng với tiêu chuẩn bồi thường dân sự; ba là, tiêu chuẩn bồi thường nhà nước thấp hơn tiêu chuẩn bồi thường dân sự.

    Pháp luật Trung Quốc quy định rõ tiêu chuẩn bồi thường nhà nước, nếu so sánh với tiêu chuẩn bồi thường trong dân sự thì tiêu chuẩn bồi thường nhà nước của Trung Quốc thuộc trường hợp thứ ba nêu trên, nghĩa là bồi thường nhà nước thấp hơn so với bồi thường dân sự. Cơ sở mà Trung Quốc lựa chọn bồi thường nhà nước thấp hơn bồi thường dân sự là do thực trạng nền kinh tế của quốc gia. Tại thời điểm Trung Quốc ban hành Luật này thì nền kinh tế rất khó khăn, hơn nữa tình trạng vi phạm pháp luật trong các cơ quan nhà nước và nhân viên cơ quan nhà nước xảy ra tương đối nhiều, do vậy, nếu nhà nước chi trả bồi thường nhà nước bằng hoặc cao hơn so với bồi thường dân sự thì khi đó Nhà nước sẽ “phá sản”. Chính vì lý do đó, bồi thường nhà nước của Trung Quốc chỉ nhằm bảo đảm nhu cầu thiết yếu mang tính tượng trưng cho đối tượng bị tổn hại. Các nước đang phát triển thông thường lựa chọn trường hợp này.

    5. Về trách nhiệm bồi hoàn của nhân viên nhà nước

    Luật Bồi thường nhà nước Trung Quốc quy định: Cơ quan có nghĩa vụ bồi thường sau khi thực hiện bồi thường nhà nước cho các đương sự có quyền yêu cầu nhân viên của cơ quan phải bồi hoàn lại một phần hoặc toàn bộ tiền bồi thường. Việc xét mức bồi thường của nhân viên nhà nước căn cứ vào mức độ vi phạm theo lỗi cố ý hoặc vô ý. Thông thường nhân viên cơ quan nhà nước chỉ phải bồi hoàn một phần kinh phí bồi thường vì thực tế cho thấy trong nhiều trường hợp mức bồi thường chi trả cho các đối tượng được bồi thường là rất lớn mà nhân viên cơ quan nhà nước không có khả năng chi trả, trong khi đó nếu quy định nhân viên nhà nước phải hoàn trả toàn bộ kinh phí bồi thường thì sẽ vô hình chung làm cho nhân viên không dám thực thi công vụ. Chỉ trong những trường hợp do nhân viên phạm lỗi nhiều lần và mức bồi thường ít thì khi đó có thể xem xét nhân viên phải bồi hoàn toàn bộ.

    Ngoài việc phải bồi hoàn kinh phí cho cơ quan nhà nước ra, pháp luật Trung Quốc còn quy định nhân viên vi phạm có thể sẽ bị kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc nếu trong trường hợp cấu thành tội phạm thì phải truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

    6. Về thời hiệu yêu cầu bồi thường

    Điều 32 Luật Bồi thường nhà nước Trung Quốc quy định thời hiệu yêu cầu bồi thường là 2 năm kể từ khi việc thực thi nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan và nhân viên của cơ quan nhà nước gây ra thiệt hại được xác định là trái quy định của pháp luật. Thời hạn bị giam giữ không được tính vào thời hiệu yêu cầu bồi thường.

    Bài viết của Ths. Nguyễn Đỗ Kiên - Vụ Tổ chức Cán bộ - Bộ Tư pháp (bài đăng trên trang thongtinphapluatdansu )

     
    Báo quản trị |