Không thực hiện hợp đồng mua bán

Chủ đề   RSS   
  • #376993 01/04/2015

    snowflake1405

    Female
    Sơ sinh

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:15/03/2015
    Tổng số bài viết (2)
    Số điểm: 25
    Cảm ơn: 0
    Được cảm ơn 0 lần


    Không thực hiện hợp đồng mua bán

    Kính chào luật sư, tôi xin nhờ tư vấn cho 2 trường hợp như sau:

    TH1: Trong 1 hợp đồng mua bán (chỉ thỏa thuận qua tin nhắn chat, email), nội dung hợp đồng chỉ nêu tên hàng hóa, không có điều khoản về thời gian giao hàng, chất lượng hàng hóa.

    Nếu người bán vì 1 số lý do khách quan (làm ăn thua lỗ, điều kiện vận chuyển,...) mà không thực hiện giao hàng. Bên mua có quyền tố cáo bên bán về tội hình sự không?

    Nếu chỉ có chứng từ gửi tiền (không ghi lý do gửi), cùng nội dung trao đổi thỏa thuận (có thể được in ra hoặc chụp lại) thì đã đủ để tố cáo chưa?

    TH2: Trong trường hợp nào, thì 1 giao dịch dân sự chuyển hóa thành hình sự? Nếu 1 người có hành vi gian dối trong giao dịch dân sự, nhưng không vì mục đích chiếm đoạt làm sở hữu cá nhân mà vì những mục đích khác (trả nợ, thua lỗ dẫn đến mất khả năng chi trả nên không thực hiện được hợp đồng,...) thì có phạm vào các tội về chiếm đoạt tài sản không?

    Chân thành cảm ơn quý luật sư đã dành thời gian tư vấn cho tôi.

     

     

     
    4486 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận
  • #441268   11/11/2016

    nguyentrahl
    nguyentrahl

    Female
    Sơ sinh

    Nghệ An, Việt Nam
    Tham gia:21/11/2015
    Tổng số bài viết (15)
    Số điểm: 75
    Cảm ơn: 2
    Được cảm ơn 1 lần


    Chào bạn,

    Về các vấn đề mà bạn thắc mắc, tôi xin có một số ý kiến góp ý như sau:

    Một hành vi chỉ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi nó thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm được quy định trong BLHS. Ở đây, hành vi không thể thưc hiện theo hợp đồng đã thỏa thuận vì lý do khách quan mà không nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác không phạm vào điều luật nào trong BLHS, do đó, hành vi này sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự mà vấn đề này được giải quyết theo các quy định của BLDS. Cụ thể, căn cứ Điều 302, BLDS, khi bên có nghĩa vụ mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền, trừ trường hợp do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự. Nhưng cũng cần lưu ý, lý do “làm ăn thua lỗ” mà bạn đề cập không được coi là sự kiện bất khả kháng nên khi làm ăn thua lỗ mà không thực hiện đúng như hợp đồng mua bán hàng hóa đã giao kết thì vẫn phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật quy định khác.    

    Tuy nhiên, nếu người bán nhận được tài sản của người mua qua hợp đồng mua bán hàng hóa có giá trị từ bốn triệu đồng trở lên hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đọat tài sản này hoặc đã sử dụng vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự Về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt theo điều 140, BLHS. Cụ thể, điều luật này quy định:

    “Điều 140. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

    1. Người nào có một trong những hành vi sau đây  chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bố triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:

      a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian  dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;

      b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó  vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

    ….”

    Như vậy, trách nhiệm dân sự có thể chuyển hóa thành trách nhiệm hình sự khi xuất hiện các dấu hiệu được quy định trong điều luật về một tội phạm trong BLHS mà cụ thể trong trường hợp này là hành vi dùng thủ đoạn lừa dối hoặc bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản hoặc sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản có giá trị trên bốn triệu đồng hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng đã từng bị xử phạt hành chính hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản. Trường hợp 1 người có hành vi gian dối trong giao dịch dân sự, không vì mục đích chiếm đoạt làm sở hữu cá nhân mà vì mất khả năng chi trả nên không thực hiện được hợp đồng thì không có phạm vào các tội về chiếm đoạt tài sản mà tùy theo mức độ, tính chất cụ thể của hành vi mà xử lý hành chính, dân sự... Lưu ý, nếu người bán sau khi đã nhận được tài sản từ người mua mà sử dụng vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản thì vẫn có thể bị truy cứu TNHS.

    Trên đây là ý kiến chia sẻ của tôi về vấn đề mà bạn thắc mắc, hy vọng đã có thể giúp bạn phần nào giải đáp thắc mắc của mình. Việc đưa ra các góp ý trên dựa vào nội dung mà bạn cung cấp và chỉ mang tính tham khảo. Trường hợp có nhầm lẫn hoặc cần tư vấn trực tiếp vui lòng liên hệ công ty Luật Việt Kim từ chúng tôi theo địa chỉ bên dưới.

    Cảm ơn bạn đã dành thời gian đọc ý kiến, góp ý của chúng tôi!

    Nguyễn Thị Trà | CÔNG TY LUẬT VIỆT KIM (www.vietkimlaw.com)

    M: (+84-4) 3.2899.888 - E: [email protected]

    Ad: CS1- Tầng 5, Tòa nhà SHB, 34 Giang Văn Minh, Ba Đình, HN /

    CS2 - Tầng 5, Nhà C, 236 Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, HN.

     
    Báo quản trị |