Mình tham khảo các ý kiến thì thấy: Luật doanh nghiệp thừa nhận công ty hợp danh có tư cách pháp nhân là hoàn toàn mâu thuẫn với Điều 84 - Bộ luật dân sự 2005. Tuy nhiên nếu theo tư duy pháp lý thì Công ty hợp danh là thuộc điều chỉnh của Luật doanh nghiệp 2005 và đây là văn bản chuyên ngành nên việc công ty hợp danh có tư cách pháp nhân là hoàn toàn hợp pháp, không mâu thuẫn.
Tư cách pháp nhân của công ty hợp danh có hay không rất khó phân tích vì khi công ty hợp danh chỉ có những thành viên hợp danh thì đương nhiên tính trách nhiệm lại rất rõ ràng đó là chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản cá nhân (điều này mâu thuẫn với điều 84 - Bộ luật dân sự 2005). Nhưng khi công ty hợp danh có thêm các thành viên góp vốn thì tính trách nhiệm của các thành viên góp vốn lại chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vị số vốn đã đóng góp (điều này thì đã đạt yêu cầu về tư cách pháp nhân theo điều 84 - Bộ luật dân sự 2005)
Một số nhà khoa học đưa ra thêm hai lý do sau: trước hết, pháp luật Việt Nam quy định rằng tổ chức tham gia một ngành nghề nào đó phải có tư cách pháp nhân. Vì vậy, việc thừa nhận tư cách pháp nhân của công ty hợp danh cho phép loại hình doanh nghiệp này được quyền tham gia những ngành nghề đó; thứ hai, việc thừa nhận tư cách pháp nhân của công ty hợp danh là điều đơn giản và dễ dàng hơn việc xây dựng một loạt khái niệm pháp luật và kỹ thuật pháp lý khác để công ty hợp danh có thể tham gia giao dịch với bên thứ ba và tham gia vào hoạt động tố tụng.
Đó là lập luận từ trước khi Luật Doanh nghiệp năm 2005 được ban hành, vì vậy công ty hợp danh có tư cách pháp nhân là do Luật Doanh Nghiệp quy định như vậy. còn doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân là vì không đáp ứng được tiêu chí thứ 3 tại Đ84 BLDS. 
Cập nhật bởi maithuyphu ngày 18/09/2014 04:04:36 CH
hãy nói cho tôi nge, bạn đang nghĩ gì.