Bổ sung, thay đổi về thông tin quê quán cho con nuôi là một vấn đề được rất nhiều người quan tâm. Vậy có thể đổi quê quán cho con nuôi không? Cùng tìm hiểu qua bài viết dưới đây nhé!
(1) Những thông tin có thể đổi, bổ sung trong giấy tờ hộ tịch của con nuôi
Nhằm đảm bảo trẻ được nhận làm con nuôi có cuộc sống ổn định, không gây ảnh hưởng đến tâm lý trẻ, không gây nên sự phân biệt, đối xử giữa con đẻ và con nuôi, giữa anh em trong gia đình, khoản 2 và khoản 3 Điều 10 Nghị định 19/2011/NĐ-CP quy định như sau:
- Căn cứ vào Giấy chứng nhận nuôi con nuôi, theo yêu cầu của cha mẹ nuôi và sự đồng ý của con nuôi từ đủ chín tuổi trở lên, cơ quan đăng ký hộ tịch có thẩm quyền thực hiện việc thay đổi họ, chữ đệm và tên của con nuôi theo quy định của pháp luật dân sự và pháp luật về hộ tịch.
- Việc bổ sung, thay đổi thông tin về cha, mẹ trong Giấy khai sinh của con nuôi được thực hiện theo quy định của pháp luật về hộ tịch.
Như vậy, sau khi có Giấy chứng nhận nuôi con nuôi, trên cơ sở nhu cầu của cha, mẹ nuôi, cơ quan đăng ký hộ tịch thực hiện các thủ tục sau:
Thay đổi họ, chữ đệm, tên của con nuôi:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 24 Luật Nuôi con nuôi 2010, theo yêu cầu của cha mẹ nuôi, cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định việc thay đổi họ, tên của con nuôi. Việc thay đổi họ, tên của con nuôi từ đủ 09 tuổi trở lên phải được sự đồng ý của người đó.
Trường hợp Tòa án ra quyết định chấm dứt nuôi con nuôi thì con nuôi có quyền lấy lại họ, tên của mình như trước khi được cho làm con nuôi (khoản 5 Điều 27 Luật Nuôi con nuôi 2010).
Bổ sung, thay đổi thông tin cha, mẹ trong Giấy khai sinh của con nuôi:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Luật Hộ tịch 2014, việc thay đổi thông tin về cha, mẹ trong nội dung khai sinh đã đăng ký sau khi được nhận làm con nuôi thực hiện theo quy định của Luật Nuôi con nuôi 2010.
Như vậy, căn cứ vào Giấy chứng nhận việc nuôi con nuôi, con nuôi được thay đổi phần khai về cha, mẹ trong Giấy khai sinh của con nuôi.
Trường hợp phần khai về cha, mẹ trong Giấy khai sinh và Sổ đăng ký khai sinh còn để trống, thì căn cứ vào Giấy chứng nhận nuôi con nuôi, công chức Tư pháp – hộ tịch ghi bổ sung thông tin của cha mẹ nuôi vào mặt sau Giấy khai sinh và Sổ đăng ký khai sinh của con nuôi theo quy định.
Việc bổ sung, thay đổi thông tin về cha, mẹ trong Giấy khai sinh của con nuôi được thực hiện theo quy định của pháp luật về hộ tịch.
(2) Có thể đổi quê quán cho con nuôi không?
Trong thời gian qua, đã có nhiều phản ánh từ một số địa phương về nhu cầu của cha mẹ nuôi trong việc thay đổi quê quán và dân tộc của con nuôi, nhằm đảm bảo sự phát triển hài hòa về tâm lý cho trẻ. Việc này giúp tránh tình trạng con nuôi cảm thấy mặc cảm về thân phận khác biệt so với anh em trong gia đình và với cha mẹ nuôi.
Liên quan đến vấn đề này, theo khoản 2 Điều 7 Nghị định 123/2015/NĐ-CP quy định, việc cải chính hộ tịch theo quy định của Luật Hộ tịch 2014 là việc chỉnh sửa thông tin cá nhân trong Sổ hộ tịch hoặc trong bản chính giấy tờ hộ tịch và chỉ được thực hiện khi có đủ căn cứ để xác định có sai sót do lỗi của công chức làm công tác hộ tịch hoặc của người yêu cầu đăng ký hộ tịch.
Như vậy, theo quy định của pháp luật về dân sự và hộ tịch, việc thay đổi quê quán và dân tộc của con nuôi theo quê quán và dân tộc của cha mẹ nuôi chỉ được thực hiện khi có đủ căn cứ xác định có sai sót do lỗi của công chức làm công tác hộ tịch hoặc của người yêu cầu đăng ký hộ tịch.
Do đó, trường hợp không có căn cứ xác định có sai sót do lỗi của công chức làm công tác hộ tịch hoặc của người yêu cầu đăng ký hộ tịch về thông tin quê quán của con nuôi thì việc thay đổi quê quán cho con nuôi không nằm trong phạm vi thay đổi hộ tịch.
Điều này có nghĩa là những trường hợp đề nghị thay đổi hộ tịch liên quan đến quê quán và dân tộc của con nuôi sẽ không được xem xét và giải quyết.
Nguyên nhân của quy định này có thể xuất phát từ mục tiêu bảo vệ tính chính xác và minh bạch của thông tin hộ tịch, đồng thời duy trì sự ổn định trong hệ thống pháp luật. Việc thay đổi quê quán và dân tộc có thể gây ra những khó khăn trong việc quản lý thông tin dân cư và ảnh hưởng đến các quyền lợi liên quan đến cư trú, giáo dục và các dịch vụ xã hội khác.
Mặc dù mong muốn của cha mẹ nuôi là chính đáng và có cơ sở tâm lý, nhưng việc pháp luật không cho phép thay đổi quê quán và dân tộc của con nuôi cũng phản ánh sự cần thiết phải tuân thủ các quy định chung về hộ tịch.
Quan trọng hơn hết vẫn là việc dù là con đẻ hay con nuôi thì cũng đều có quyền được sống trong một môi trường yêu thương và hỗ trợ mà không phải chịu áp lực về danh tính hay nguồn gốc cá nhân.
(3) Quy định về người được nhận làm con nuôi
Theo quy định tại Điều 8 Luật Nuôi con nuôi 2010, người được nhận làm con nuôi là các đối tượng sau đây:
- Trẻ em dưới 16 tuổi
- Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi;
+ Được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng một người chỉ có thể làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai vợ chồng, điều này nhằm đảm bảo tính ổn định và trách nhiệm trong mối quan hệ
Ngoài ra, Nhà nước cũng khuyến khích việc nhận trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khác làm con nuôi. Việc này không chỉ thể hiện sự quan tâm của xã hội đối với những trẻ em có hoàn cảnh khó khăn mà còn tạo cơ hội cho những trẻ em này có được một mái ấm gia đình và sự chăm sóc, yêu thương cần thiết để phát triển toàn diện.