Tục bắt vợ - Ảnh minh họa
Do sự đa dạng về vùng miền và dân tộc mỗi một nơi trên đất nước chúng ta đều có những nét văn hóa truyền thống nhuốm màu thời đại. Tuy nhiên, dần theo thời gian chúng dần mai một và trở nên quặn quẹo trong tay người kế thừa. Một trong số đó chính là hủ tục “Bắt vợ”.
Sự “biến tướng” của hủ tục bắt vợ
“Bắt vợ” là một phong tục lâu đời của đồng bào Dân tộc H’mông. Thật ra, trước khi bắt vợ xảy ra hai bên nam nữ đã có quan hệ yêu đương từ trước đây chỉ là một bước trong phong tục để đưa cô dâu về nhà theo cách mà tổ tiên họ đã truyền từ đời này sang đời khác.
Bắt vợ" về bản chất không xấu nhưng khi bị biến tướng sẽ trở nên xấu xa vô cùng vì nó thực chất đã tước đi quyền tự do của một người. Tước đi cả quyền được chọn lựa tương lai của những cô gái vùng dân tộc, vốn còn ngây thơ và chưa hiểu rõ ràng về Luật pháp.
Rồi sẽ ra sao nếu những bé gái chỉ mới 14-15 tuổi mà không hề thích người kia mà bị "bắt" về làm vợ thì cuộc sống hôn nhân về sau sẽ khủng khiếp đến mức nào?
Khi mang tiếng "đã bị bắt" về làm vợ, thiếu nữ ấy nếu muốn thoát khỏi nhà trai cũng không còn có cơ hội. Vì sự chối từ của chính nhà mẹ ruột, vì những cái đầu mang đậm chất tư tưởng tin vào thánh thần.
Tương lai của những bé gái còn đang ngồi trên ghế nhà trường sẽ đi về đâu?
Những câu hỏi này vẫn chưa có câu trả lời. Những nét đẹp văn hóa giờ đây đã bị biến tướng hoàn toàn so với trước và không còn giữ được vẻ đẹp trong sáng như trước nữa. Tất cả đang giống như một vụ phạm pháp được che đậy bởi những "phong tục" mà không ai có thể chạm tới được.
Quy định pháp luật về hủ tục này
Theo luật pháp nước ta, ”cướp vợ” là hành vi cưỡng ép kết hôn thuộc các hành vi cấm kết hôn được quy định tại Khoản 2, Điều 5, Luật hôn nhân và gia đình 2014:
Cấm các hành vi sau đây:
- Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;
- Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;
- Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;
- Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
- Yêu sách của cải trong kết hôn;
- Cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn;
- Thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính;
- Bạo lực gia đình;
- Lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi.
Việc cưỡng ép kết hôn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự
Theo Điều 181, Luật Hình sự 2015 có quy định như sau:
"Người nào cưỡng ép người khác kết hôn trái với sự tự nguyện của họ, cản trở người khác kết hôn hoặc duy trì quan hệ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ hoặc cưỡng ép hoặc cản trở người khác ly hôn bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải hoặc bằng thủ đoạn khác, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 03 năm."
“Phép vua” liệu có thua “lệ làng”
Do hạn chế về nhiều mặt từ kinh tế đến sự phát triển không toàn diện của xã hội mà cư dân miền núi đa phần không có hiểu biết vè pháp luật. Hoặc có hiểu biết nhưng họ có niềm tin vào thần linh nhiều hơn nên từ lâu việc khắc phục những hậu quả xấu do sự biến thể của các tập tục gây nhiều khó khăn cho chính quyền địa phương nói riêng và người thi hành pháp luật nói chung.
Khó mà có thể kiểm tra giám sát và xử hết được các tình huống phát sinh khi mà điều kiện để tiếp cận sâu sát với cộng đồng dân tộc miền núi còn chưa được cải thiện.
Để hạn chế hệ luỵ từ những biến tướng từ tục bắt vợ để duy trì, bảo vệ nét đẹp văn hoá truyền thống, tục lệ của người H’mông cần thay đổi mạnh mẽ cách tuyên truyền pháp luật, nâng cao nhận thức, khả năng tiếp cận thông tin pháp luật đầy đủ chính xác. Dựa vào uy tín của già làng, trưởng bản để thông tin đến những người còn lại. Với người dân tộc thiểu số họ thường có niềm tin tuyệt đối vào người lãnh đạo tinh thần này, hoàn toàn tin cậy vào các luật tục của dân tôc họ.
Quan trọng là phải chuyển hoá được các quy định pháp luật thành các hương ước, thành các quy ước làng xã, thôn bản trên cơ sở luật tục.Có như vậy thì người dân nơi đây mới có thể dễ dàng áp dụng pháp luật vào cuộc sống.
Cập nhật bởi NguyenThanhNgan123 ngày 06/10/2020 02:30:05 CH