Tại Khoản 1 Điều 121 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 có quy định về bảo lĩnh như sau:
Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh.
Tại Khoản 1 Điều 335 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định về bão lãnh như sau:
Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
Như vậy có thể thấy rằng khái niệm bảo lĩnh và bảo lãnh là hoàn toàn khác nhau. Bảo lĩnh là một trong các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự,. Bảo lãnh là một trong các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong dân sự.
Trong trường hợp bị tạm giam, người thân thích của người bị tạm giam có thể đứng ra bảo lĩnh, vấn đề này được quy định cụ thể tại Khoản 2 Điều 121 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 như sau:
Cá nhân là người đủ 18 tuổi trở lên, nhân thân tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, thu nhập ổn định và có điều kiện quản lý người được bảo lĩnh thì có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người thân thích của họ và trong trường hợp này thì ít nhất phải có 02 người. Cá nhân nhận bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan có xác nhận của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập.
Theo quy định trên, người thân đủ đủ 18 tuổi trở lên, nhân thân tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, thu nhập ổn định và có điều kiện quản lý người được bảo lĩnh thì có thể nhận bảo lĩnh.