Bản án sơ thẩm của TAND huyện Cao Lộc "Tranh chấp quyền sử dụng đất"

Chủ đề   RSS   
  • #330623 27/06/2014

    nguyenthuhang-ls

    Sơ sinh

    Lạng Sơn, Việt Nam
    Tham gia:09/06/2014
    Tổng số bài viết (6)
    Số điểm: 210
    Cảm ơn: 4
    Được cảm ơn 0 lần


    Bản án sơ thẩm của TAND huyện Cao Lộc "Tranh chấp quyền sử dụng đất"

    TAND HUYỆN CAO  LỘC                                                      CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

    TỈNH LẠNG SƠN                                                                                    Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

    Bản án số 02/2014/DSST

    Ngày 9/6/2014

    V/v: Tranh chấp QSD Đ và yêu cầu hủy GCNQSDĐ

                                                                                           NHÂN DANH

                                                                   NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

                                                            TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LỘC - TỈNH LẠNG SƠN

    Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:

    Thẩm phán - Chủ tạo phiên tòa: ông Liễu Văn Bình

    Các hội thẩm nhân dân:

    1.Ông Lương Văn Sắc

    2. Bà Tô Thị Lợi

    Thư kí tòa án ghi biên bản phiên tòa: Ông Phạm Văn Tín- cán bộ tòa án nhân dân huyện Cao Lộc.

    Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn tham gia phiên tòa: Bà Hoàng Thanh Huyền - Kiểm sát viên

    Trong các ngày mùng 6 mùng 9 tháng 6 năm 2014, tại trụ sở tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số 08/2013/TLST-DS ngày 17/10/2013, về việc : ( tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ) theo quyết định đưa vụ án ra xét sử số 03/QĐXX-ST ngày 22 tháng 5 năm 2014 giữa các đương sự:

    I.Nguyên đơn: Ông Nguyễn Ngọc Dinh, sinh năm 1936

    Trú tại: Tổ1, khối 5, Hợp Thành, Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn có mặt

    II. Bị đơn: Chị Dương Thị Hằng, sinh năm 1983

    Trú tại: Số 16, đường Văn Vỉ, phường Chi Lăng, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Ủy quyền cho ông Dương Xuân Tường, trú tại số nhà 61,khối 5, toor1, Hợp Thành, Cao Lộc, Lạng Sơn, theo văn bản ủy quyền ngày 26/5/2014 có mặt.

    Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Chu Khắc Mẫn - Luật sư văn phòng luật sư Cao Sơn - thuộc đoàn luật sư tỉnh Lạng Sơn có mặt.

    III. Những người có quyền lợi và nghĩ vụ liên quan:

    1. Bà Trần Thị Nụ( vợ ông Dinh), sinh năm 1946, có mặt.

    2. Ông Dương Xuân Tuấn( bố đẻ chị Dương Thị Hằng), sinh năm 1957, ủy quyền cho ông Dương Xuân Tường, theo giấy ủy quyền ngày 23/11/2013, vắng mặt

    3. Bà Đoàn Thị Ninh sinh năm 1963( vợ ông Tường) vắng mặt

    4. Anh Nguyễn Thái Sơn( con ôn Dinh), sinh năm1973

    5. Chị Nguyễn Thu Hằng( con ông Dinh) sinh năm 1968

    Cùng địa chỉ: Toor1, khối 5,Hợp Thành, Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn có mặt.

    6. UBND huyện Cao Lộc: Người đại diện ủy quyền: bà Nguyễn Thị Hương - viên chức văn phòng Đăng kí quyền sử dụng đất thuộc phòng TNMT huyện Cao Lộc, theo văn bản ủy quyền soos75 ngày 22/1/2013.

    7. Ông Đoàn Năng Hùng, sinh năm 1965.

    Trú tại: 182, đường Trần Đăng Ninh, phường Hoàng Văn Thụ,TP Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn( vắng mặt), ông Hùng đa có đơn đề nghị tòa án xử vắng mặt.

    8. Bà Hồ Thị Lan Anh( vợ ông Hùng), sinh năm 1969

    ủy quyền cho ông Hùng theo giấy ủy quyền ngày 24 tháng 2 năm 2014.

                                                                                                        NHẬN THẤY

    Nguyên đơn ông Nguyễn Ngọc Dinh trình bày:

    Năm 1996, tôi được nhà nước giao hồ sơ quản lí và sử dụng đất rừng và đất trồng rừng( sổ bìa xanh) thuộc mảnh 52 với diện tích 0,12 ha( lúc bấy giờ chưa có máy đo chuyên dụng mà chỉ ước lượng, thống nhất ranh giới. Ngay sau khi được giao đất tôi đã quản lí và sử dụng ổn định, liên tục, công khai trồng cây thông... trên toàn bộ khu đất trong đó có diện tích đất đang tranh chấp bây giờ.Không có sự tranh chấp về ranh giới với các hộ liền kề.) Tại tổ 1,khối 5, Hợp Thành, Cao Lộc theo QĐ số 344/UB- QĐ ngày 13/9/1996 của UBND huyện Cao Lộc. Khu đất có 2 mặt giáp ranh với đất rừng nhà ông Vũ Văn Tân( lô 21) và đất rừng nhà ông Hưởng(lô 22 ông Hưởng là bố đẻ của anh Hùng). Cả 3 lô đều có phía bắc giáp QL 4B. Dưới chân đồi có 3 hộ gia đình sinh sống là( nhà ông Tân, nhà bà Nụ - vợ ông Dinh, nhà anh Tuấn). Còn phía đối diện bên kia đường có nhà bà Soạn; nhà bà Dung- là mẹ của anh Tuấn, anh Tường,bà nội của Dương Thị Hằng; quán nhà bà Thanh, nhà anh Tuân - làm sau).Còn bà Dung không nhận đất đồi vì lúc bấy giờ bà không có ai ở nhà để trồng cây.Những người có mặt để nhận đất lúc bấy giờ đều xác  nhận bà Dung không nhận đất đồi khi chính quyền địa phương và cán bộ lâm nghiệp giao( ông Tân là trưởng thôn lúc bấy giờ -  trực tiếp là người giao đất, bà Soạn, bà Thanh - là hàng xóm).

    Năm 2008, đo đạc bản đồ đất lâm nghiệp, chuyển đổi từ hồ sơ bìa xanh sang GCNQSDĐ( sổ đỏ), diện tích đo bằng máy chuyên dụng là 4.099m2. Cả 2 lần khi đi giao đất đều có chính quyền địa phương và các hộ gia đình được giao đất có mặt đầy đủ để thống nhất ranh giới.

    Đến ngày 27/10/2010 tôi được UBND huyện Cao Lộc cấp GCNQSDĐ số vào sổ cấp CH00144, thửa số 731, tờ bản đồ số 01 bản đồ địa chính đất lam nghiệp xã Hợp Thành, huyện Cao Lộc đo vẽ năm 2008, diện tích 4.099m2.

    Năm 2006 dự án mở rộng đường QL 4B. Kiểm đếm lần 1 để làm đường 2 hộ là Dương Xuân Tuấn và Trần Thị Nụ có phía bắc giáp đồi nhà ông Nguyễn Ngọc Dinh đã được đền bù và lấy hết đất để làm đường. Nhà bà Nụ còn 27m2.

    Năm 2008 nhà nước kiểm đếm đền bù lần 2  nhà tôi cho nhà nước mượn đất để làm vỉa hè ,tà li. Còn cây trồng trên đất đã được đền bù với số tiền hơn 10 triệu đồng đã nộp biên lai cho tòa án.

    Thế nhưng năm 2010 nhà nước làm đương nâng cấp QL 4B có mượn đất đồi nhà tôi để làm vỉa hè, tà li 1 số lớn diện tích. Lợi dụng lúc công trường san lấp, ngày 7/6/2010 vợ chồng Dương Thị Hằng trú tại số nhà 16 Văn Miếu phường Chi Lăng TPLS thuê hơn 30 thanh niên( dạng đâm thuê chém mướn) đến uy hiếp dọa đánh để đem máy đến san ủi xây tường rào - tôi phải điện mời công an 113 tỉnh Lạng Sơn; công an huyện cùng công an xã đến xử lí nhưng sau đó chúng vẫn cố tình san ủi đất đồi rừng của tôi thành mặt bằng diện tích 271,56m2.Nay yêu cầu Dương Thị Hằng phải trả lại số diện tích đất trên cho tôi.

    (Khai bổ sung thêm ở cấp sơ thẩm lần 2 để tiện theo dõi) Còn lô 22 chuyển thành lô 246 đã cấp GCN cho hộ Đoàn Năng Hùng năm 2005 thì trích đo địa chính khu đất số 298/ TĐĐC vẽ sơ đồ thể hiện đất nhà tôi bị nhà anh Hùng lấn sang rất nhiều nhưng tôi không hề hay biết. Nay yêu cầu anh Hùng trả lại đúng diện tích đất  theo ranh giới đã thống nhất giữa 2 nhà trước sự chứng kiến của mọi người có mặt khi giao đất lúc đó. 

    Trích đo của văn phòng ĐKQSSĐ thuộc sở TNMT ngày 21/4/2014 vẽ khu đất của tôi không đúng với hiện trạng sử dụng đất trên thực tế, sai lệch, bịa đặt so với sơ đồ gốc năm 2008/ 2010 của UBND huyện cấp cho tôi: Tại sao trong đất nhà tôi lại có đất nhà ông Tân;đất bà Dung; cấp chồng 7 thửa đất liền kề... Nay yêu cầu văn phòng ĐKQSDĐ thuộc sở TNMT tỉnh Lạng Sơn đo đạc đúng theo hiện trạng đất tôi đang quản lí sử dụng ổn định, liên tục, công khai, không có tranh chấp ranh giới với các hộ liền kề trước sự chứng kiến của mọi người.

    Còn tại phiên hòa giải thẩm phán Liễu Văn Bình cho anh Hùng và Dương Thị Hằng thỏa thuận có đúng luật không? Hằng không có đất trong khi anh Hùng công nhận diện tích đất tranh chấp là của tôi.

    Nay yêu cầu Tòa án buộc chị Dương Thị Hằng và anh Đoàn Năng Hùng trả lại diện tích đã lấn chiếm cho tôi.

    Bị đơn Dương Thị Hằng trình bày: Phần diện tích 271,57m2 đang tranh chấp, nguồn gốc là của bà Nguyễn Thị Dung( bà nội chị) đã khai phá, sử dụng từ năm 1970, sau đó bà nội chị chia cho bố chị là Dương Xuân Tuấn sử dụng và GĐ chị đã làm nhà, trồng cây thông, hồi, đu đủ, chuối... hàng năm GĐ chị vẫn nộp thuế đầy đủ. Năm 2006 khi nhà nước mở rộng QL 4B, tiến hành kiểm đếm lần 1 mang tên ông Dương Xuân Tuấn( bố chị), thời kì đó bà Dung( bà nội chị) vẫn còn sống, gia đình ông Dinh không ai có ý kiến gì, năm 2008 tiến hành kiểm đếm lần 2, khi đó bà Dung đã chết, GĐ ông mới đến tranh chấp. Nên chị yêu cầu được quản lí toàn bộ diện tích đất đang tranh chấp.

    Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn ông Chu Khắc Mẫn - là luật sư - thuộc văn phòng luật sư Cao Sơn trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên hủy GCNQSDĐ đã cấp cho ông Nguyễn Ngọc Dinh, tại thửa 731; Bác yêu cầu của ông Dinh đòi được sử dụng số diện tích đất đang tranh chấp cho Dương Thị Hằng được quản lí sử dụng. Diện tích đất đang tranh chấp không liên quan gì đến thửa 246 của anh Đoàn Năng Hùng, không chấp nhận anh Hùng đòi sử dụng diện tích 86,8m2.

    Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

    -  Bà Trần Thị Nụ( vợ ông Dinh) trình bày ý kiến giống ông Dinh.

    -  Ông Dương Xuân Tuấn( bố chị Hằng) trình bày: Diện tích đất tranh chấp nguồn gốc là của bà Trần Thị Dung (mẹ ông) đã khai phá, sử dụng từ năm 1970, sau này bà đã chia cho ông, gia đình ông làm nhà, trông cây, nay ông Dinh yêu cầu như vậy ông không nhất trí.

    - UBND huyện Cao Lộc bà Nguyễn Thị Hương là đại diện theo ủy quyền trình bày : Diện tích đất đang tranh chấp giữa ông Dinh và chị Hằng thuộc một phần thửa 154, thuộc bản đồ địa chính số 57 xã Hợp Thành đo vẽ năm 1998. Năm 2008 nhà đồ số 1, diện tích là 4.099m2 cho ông Nguyễn Ngọc Dinh và vợ là Trần Thị Nụ. Vịc cấp giấy CNQSDĐ cho ông Dinh là đúng đối tượng, đúng trình tự, thủ tục pháp luật đất đai đã quy định. Tuy nhiên khi đo có trùng một phần thửa 246 mang tên Đoàn Năng Hùng, hiện đang tranh chấp, nên đề nghị tòa án tuyên hủy phần cấp trùng này, UBND huyện sẽ thu hồi giấy CNQSDĐ đã cấp cho ông Dinh và cấp lại khi tòa án giải quyết xong vụ án

    - Anh Đoàn Năng Hungd trinhg bày : diện tích đất tranh chấp giữa ông Dinh và chị Hằng đã được nhà nước cấp GCNQSDĐ cho ông Dinh thuộc thửa 731, tờ bản đồ số 01, trong đó có 86,78m2 là thuộc diện tích đất của anh quản lý, nay anh yêu cầu hủy 1 phần giấy CNQSDĐ mà UBND huyện đã cấp cho ông Dinh sang phần diện tích đất của anh.

    - Tại biên bản thẩm định tại chỗ ngày 22/5/2012 của TAND huyện Cao Lộc xác định: tổng diện tích đất tranh chấp là 271,56m2 ( chiều dài là 21,9m , chiều sâu là 12,4m), trong đó có 86,8m2 thuộc một phần thửa số 154, tờ bản đồ địa chính số 57 xã hợp thành, đo vẽ năm 1998 đã cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho hộ Đoàn Năng Hùng từ năm 2005 ; phần diện tích đất tranh chấp còn lại 184,76m2 chưa xác định là đã cấp GCNQSDĐ hay chưa

    Ngày 24/5/2012 ông Dinh đến cung cấp bản sao GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số CH00144 do UBND huyện Cao Lộc cấp ngày 27/10/2010, thuộc thửa đất số 731 tờ bản đồ số 01, xã Hợp Thành mang tên ông Nguyễn Ngọc Dinh và bà Trần Thị Nụ cho tòa án.

    Ngày 24/1/2013, Tòa án tổ chức hòa giải vụ án  giữa các bên đương sự, nhưng cuộc hòa giải không có kết quả.

    Với nội dung trên, tại bản án Dân sự sơ thẩm số 06/2013 DS- ST ngày 11/6/2013 của TAND huyện Cao Lộc đã quyết định:

    1. Công nhận quyền quản lí sử dụng của hộ ông Nguyễn Ngọc Dinh đối với phần diện tích ddaats184,76m2 tại thửa 731, tờ bản đồ địa chính số 01 xã Hợp Thành, huyện Cao Lộc đã được UBND huyện Cao Lộc đã cấp cho Ông Dinh và bà Nụ.

    2. Hủy 1 phần diện tích đất là 86,8 m2 tại thửa 731, trong tổng số diện tích 4.099m2, thuộc tờ bản đồ địa chính số 01 xã Hợp Thành... thuộc quyền quản lí sử dụng của anh Đoàn Năng Hùng.

    Ngoài ra bản án còn tuyên về phần án phí, chi phí định giá và quyền kháng cáo.

    Không nhất trí với nội dung bản án, trong thời hạn luật định, chị Dương Thị Hằng đã làm đơn kháng cáo toàn bộ bản án với lí do: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử vụ án không đúng quy định của pháp luật, việc thu thập chứng cứ chưa đầy đủ.

    Ngày 6/9/2013, TAND tỉnh Lạng Sơn đã đưa vụ án ra xét xử. Tại bản án số: 51/2013/DS_PT ngày 6/9/2013 của TAND tỉnh Lạng Sơn đã xử: Tuyên hủy toàn bộ bản án sơ thẩm số 06/2013/DS-ST ngày 11/6/2013 của TAND huyện Cao Lộc giải quyết lại vụ án, với những lí do sau:

    - Về thu thập chứng cứ: Chưa xác định các phía tiếp giáp đất nhà ông Nguyễn Ngọc Dinh, phía đông có tiếp giáp với thửa 246 mang tên Đoàn Năng Hùng hay không? Thửa 725 và thửa 246 là 1 hay 2 thửa tách biệt, vấn đề này chưa được cấp sơ thẩm làm rõ.

    - Về xác định tư cách người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa ĐDUBND huyện khẳng định, bà Đoàn Thị Ninh đã được cấp GCNQSD Đ thửa 725 đến nay nhà nước chưa thu hồi, toàn bộ diện tích của thửa này nằm trong thửa 246 đã cấp cho ông Đoàn Năng Hùng... nên cần đưa bà Ninh vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.

    - Cấp sơ thẩm chưa xác định diện tích đất thu hồi của ông Dinh bị thu hồi là bao nhiêu, vì theo ông Dinh năm 1996 ông được cấp 1200m2, năm 2008 đo chuyển từ bìa xanh sang bìa đỏ diện tích thực tế là 4.099m2... sự chênh lệch trên chưa được làm rõ.

    - Về thủ tục cấp GCNQSD Đ: Tại phiên tòa cũng như các tài liệu trong hồ sơ thể hiện diện tích đất tranh chấp xảy ra từ ngày 7/6/2010, nhưng ngày 27/10/2010 UBND huyện vẫn cấp GCNQSD Đ cho ông Dinh, vấn đề này cấp sơ thẩm chưa làm rõ.

    - Về bức tường chị Hằng xây bao quanh đất tranh chấp, cấp sơ thẩm không buộc chị Hằng tháo dỡ, như vậy là chưa giải quyết hết các quan hệ pháp lí trong vụ án.

    - Về chi phí định giá: Tại biên bản định giá ngày 22/5/2012 xác định các bên đương sự không thỏa thuận với nhau về giá, nhưng bản án lại buộc chị Hằng chịu toàn bộ chi phí định giá là trái với quy định của pháp luật.

    Sau khi chuyển hồ sơ về cho TAND huyện Cao Lộc đã thụ lí lại vụ án" Tranh chấp QSD Đ và yêu cầu hủy CNQSD Đ" giữa nguyên đơn ông Nguyễn Ngọc Dinh và bị đơn chị Dương Thị Hằng, để giải quyết vụ án theo thủ tục chung. Sau khi ra thông báo thụ lí vụ án gửi cho các bên đương sự.Tòa án đã tiến hành triệu tập các bên đương sự  đến Tòa án viết bản tự khai:

    Tại bản tự khai ngày 4/11/2013 và biên bản lấy lời khai ngày 19/12/2013 ông Nguyễn Ngọc Dinh nguyên đơn trình bày: Ngoài những vấn đề đã khai tại cấp sơ thẩm trước đây, ông bổ xung thêm (đã viết ở phần trên để tiện theo dõi). Nay ông vẫn giữ nguyên như cấp sơ thẩm trước đây không có gì thay đổi.

    Tại bản tự khai, chị Dương Thị Hằng trình bày: Ngoài các lời khai trước đây, chị bổ sung thêm:Năm 2005 khi nhà nước đo đạc cấp đất cho nhf anh Đoàn Năng Hùng, bà Nguyễn Thị Dung( bà nội chị) còn kí giáp ranh. Việc chuyển đổi diện tích đất của ông Dinh từ 0,12ha( sổ bìa xanh) sang GCNQSD Đ (sổ bìa đỏ) 4.099m2 là không đúng trình tự, thủ tục pháp luật đất đai đã quy định, cụ thể không cắm mốc tại hiện trường, không có đầy đủ các hộ liền kề kí tên, khi chị san ủi phần diện tích đất tranh chấp hiện nay, thời điểm đó đất anh Hùng đã san, còn có bờ tà li ngăn cách, chị chỉ san tiếp trở vào, khi chị san ủi, chính anh Hùng cũng có mặt để chỉ ranh giới cho chị nên yêu cầu ông Dinh và anh Hùng chị không chấp nhận, chị đề nghị được tiếp tục sử dụng diện tích đất mà chị đã san ủi và yêu cầu hủy GCNQSD Đ mà cơ quan có thẩm quyền đã cấp cho ông Dinh.

    Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

    Tại bản tự khai ngày 4/11/2013 bà Trần Thị Nụ vẫn giữ nguyên lời khai tại Tòa án sơ thẩm cấp trước đây, bà không có gì bổ sung.

    Tại bản khai ngày 29/11/2013 của Dương Xuân Tường( là người được ông Dương Xuân Tuấn ủy quyền) trình bày: Ngoài lời khai của ông Tuấn tôi bổ sung thêm: Đất đồi rừng nhà ông Dinh chỉ tiếp giáp với đất đồi nhà ông Vũ Văn Tân, và tiếp giáp đất nhà ông Dương Xuân Tuấn, không tiếp giáp với đất nhà ông Đoàn Năng Hùng. Còn diện tích đất tranh chấp giữa ông Dinh và chị Hằng nguồn gốc là của bà Dung( mẹ ông), năm 1997 gia đình ông đã thuê ông Lô Văn Chang trồng các cây thông, hồi... trên toàn bộ khu đất của gia đình ông, trong đó có diện tích đất đang tranh chấp giữa ông Dinh và chị Hằng hiện nay. Năm 2008 nhà nước kiểm đếm đền bù cây trên đất đợt 2, hai GĐ mới xảy ra tranh chấp, nên tổ kiểm đếm đền bù đã ghi tên cả 2 người là Dương Xuân Tuấn và Trần Thị Nụ, do có sự tranh chấp nên số tiền đền bù 300.000đ hiện nay vẫn chưa ai nhận. Việc cơ quan có thẩm quyền cấp GCNQSD Đ thửa 731 cho ông Dinh là trái luật, diện tích từ 0,12ha lên 4.099m2 là quá chênh lệch, không có việc niêm yết tại UBND xã, vì thời gian đó ông còn làm cán bộ ở UBND xã không có việc niêm yết đó, ông đề nghị tòa án hủy GCNQSD Đ mà cơ quan có thẩm quyền đã cấp cho ông Dinh.

    Tại bản tự khai ngày 23/12/2013 của anh Đoàn Năng Hùng bổ sung thêm: Thửa đất 725 đã cấp cho Đoàn Thị Ninh ở trên đỉnh đồi, không liên quan đến đất tranh chấp giữa ông Dinh và chị Hằng. Khi chị Hằng cho người san ủi anh cũng ra ngăn cản nhưng chị Hằng vẫn cố tình san ủi và xây tường rào lấn sang đất của anh, nay anh yêu cầu chị Hằng trả lại.

    Tại biên bản lấy lời khai ngày 18/12/2013 của bà Đoàn Thị Ninh trình bày:" Thửa đất 725 cơ quan thẩm quyền đã cấp riêng cho bà vào thời điểm cấp cho hộ Đoàn Năng Hùng , không liên quan gì đến thửa 246... đề nghị tòa án hòa giải , xét xử vụ án chị không tham gia, vì không liên quan gì đến chị.

    Tại bản tự khai anh Nguyễn Thái Sơn và chị Nguyễn Thu Hằng( con ông Dinh) đều khai như ông Dinh đã khai ở trên.

    Tòa án đã tổ chức hòa giải giữa các bên đương sự vào ngày 25/2/2014 nhưng cuộc hòa giải không có kết quả, các bên đương sự vẫn giữ yêu cầu như trên.

    Trong quá trình giải quyết vụ án, ngày 20/1/2014 chị Hằng có đơn đề nghị trưng cầu giám định và xem xét thẩm định tại chỗ, trưng cầu giám định về diện tích, vị trí và ranh giới diện tích đất tranh chấp giữa các bên đương sự.

    Tại công văn số 36 CV - VPĐKQSD Đ ngày 21/4/2014 của văn phòng  ĐKQSD Đ thuộc sở TNMT tỉnh Lạng Sơn về việc cung cấp số liệu phục vụ xét xử vụ án tranh chấp QSD Đ, kết quả thực hiện cụ thể như sau:

    1.Khu đất tranh chấp có vị trí:

    - Phía bắc giáp QL 4B

    - Phía nam giáp đất RST ông Vũ Văn Tân và đất rừng bà Nguyễn Thị Dung( theo bản đồ năm 1998)

    - Phía đông giáp đất HNK ông Đoàn Năng Hùng cấp GCNQSD Đ năm 2005.

    - Phía tây giáp nhà ông Nguyễn Ngọc Dinh xây năm 2010.

    2. Khu đất tranh chấp có diện tích 270,97m2( có trích đo số 298/ TĐC ngày 25/3/2014 kèm theo).

    3. Diện tích đất tranh chấp:

    - Theo tờ bản đồ địa chính số 57, đo vẽ năm 1998 diện tích đất tranh chấp không nằm trong thửa 725 mang tên Đoàn Thị Ninh; nằm trong thửa 246 có diện tích 34,27m2, mang tên Đoàn Năng Hùng, số diện tích đất tranh chấp còn lại 236,7m2 giáp đất ông Vũ Văn Tân và đất bà Nguyễn Thị Dung, nằm trong thửa 154, sau khi tách thửa 246(154.1) cho anh Đoàn Năng Hùng thuộc tờ bản đồ số 57 địa chính xã Hợp Thành đo vẽ năm 1998.

    - Theo từ bản đồ địa chính đất lâm nghiệp số 01, đo vẽ năm 2008 thì diện tích đất đanh tranh chấp có diện tích 270,97m2, nằm 1 phần nhỏ trong thửa 731 diện tích 4.099m2 mang tên Nguyễn Ngọc Dinh.

    4. Thửa đất 731 thuộc tờ bản đồ địa chính đất Lâm nghiệp, cấp cho ông Nguyễn Ngọc Dinh ngày 27/10/2010 trùng vào các thửa liền kề thuộc bản đồ địa chính số 57, đo vẽ năm 1998 xã Hợp Thành như sau:

    + Trùng vào thửa 196, diện tích 1.114,9m2

    + Trùng vào thửa 171, diện tích 716,39m2

    + Trùng vào thửa 154, diện tích 1.945,4 m2( trong đó trùng với thửa 246 là 731,6m2)

    + Trùng vào thửa 142, diện tích 106,48m2

    + Trùng vào thửa 141, diện tích 58,06m2

    + Trùng vào thửa 153, diện tích 64,68m2

    + Trùng vào thửa 109, diện tích 93,09m2

    Sau khi có kết quả giám định ngày 23/5/2014, TAND huyện Cao Lộc đã triệu tập các bên đương sự đến để thông báo kết quả giám định ngày 25/3/2014 của văn phòng ĐKQSD Đ thuộc sở TNMT tỉnh Lạng Sơn và hòa giải giữa các đương sự. Tại cuộc hòa giải giữa anh Đoàn Năng Hùng và chị Dương Thị Hằng đã tự thỏa thuận: Diện tích 34,27m2 mà chị Hằng đã san ủi lấn sang thửa 246 đã cấp cho anh Đoàn Năng Hùng, chị nhất trí trả lại cho anh Hùng, số tiền chị bỏ ra san ủi chị không yêu cầu tòa án giải quyết, nên tòa án đã lập biên bản về việc thỏa thuận giữa các đương sự. Số diện tích đất tranh chấp còn lại 236,7m2 ông Dinh và chị Hằng vẫn giữ yêu cầu trên.

                                                                                                XÉT THẤY

    Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luật tại phiên tòa.

    Sau khi nghe vị đại diện viện kiểm sát phát biểu ý kiến.

    Hội đồng xét xử nhận định:

    Về thủ tục tố tụng:

    Ông Đoàn Năng Hùng( là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập) có đơn đề nghị yêu cầu tòa án xử vắng mặt, trong đơn đề nghị ông Hùng cũng nhất trí ý kiến như đã thỏa thuận tại phiên hòa giải ngày 23/5/2014. Xét thấy việc vắng mặt của ông Hùng là phù hợp với khoản 1 điều 202 của bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.

    Bà Đoàn Thị Ninh vắng mặt, qua kết quả giám định của văn phòng ĐKQSD Đ ngày 25/3/2014 kết luận: Diện tích đất đang tranh chấp không nằm trong thửa 725 mang tên Đoàn Thị Ninh, nên việc vắng mặt của bà Ninh không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án.

    Về nội dung:

    Về diện tích đất đang tranh chấp:

    Tại biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 22/5/2012, thì diện tích đất tranh chấp đo được là khoảng 271,56m2 thuộc thửa số 154, tờ 57... trong đó lẫn sang thửa 154.1(246) mang tên Đoàn Năng Hùng là 86,8m2, số diện tích còn lại 184,76m2 chưa xác định được 2 bên gia đình đã cấp GCNQSD Đ hay chưa. Còn tại kết quả giám định ngày 25/3/2014 của văn phòng ĐKQSD Đ thì diện tích đất tranh chấp là 270,97m2; Trong đó lẫn sang thửa 246( 154.1) là 34,27m2, số diện tích còn lại 236,7m2 nằm trong thửa 154, sau khi tách thửa 246( 154.1) thuộc tờ bản đồ số 57, địa chính xã Hợp Thành đo vẽ năm 1998 cho anh Đoàn Năng Hùng.

    Tại phiên tòa ông Dinh chỉ chấp nhận diện tích đất tranh chấp theo kết quả thẩm định ngày 22/5/2012, không chấp nhận kết quả ngày 25/3/2014 vì không đúng hiện trạng sử dụng đất trên thực tế, khi đo lại đo luôn các thửa liền kề, không đo diện tích đất thực tế đang tranh chấp. Còn khi làm biên bản thì không được xem vì chưa viết xong nên chỉ được kí tên vào tờ giấy trắng.

    Xét thấy yêu cầu của ông Dinh đưa ra là không có căn cứ, vì kết quả đo ngày 22/5/2012 bằng thước dây, mà số liệu đo được lại ghi là khoảng 271,56m2, khi đo hiện trạng khu đất đã bị thay đổi, nên độ chính xác không cao, còn kết quả ngày 25/3/2014 đo bằng máy, có độ chính xác cao hơn, nên cần chấp nhận kết quả đo ngày 25/3/2014.

    Trong diện tích còn lại 236,7m2, tại phiên tòa cũng như các bản tự khai của ông Nguyễn Ngọc Dinh đều cho rằng: Nguồn gốc diện tích 236,7m2 đất tranh chấp thuộc lô 52( sổ bìa xanh) được nhà nước cấp cho gia đình ông từ năm 1996... Trước khi cấp, ông và các thành phần trong đoàn đã gọi bà Dung( bà nội chị Hằng) ra hỏi, bà có nhận phần đất sau nhà không,nhưng bà không nhận, nên nhà nước đã giao cho ông sử dụng hết phần đất sau nhà ông và cả phần đất sau bà Dung trở lên đỉnh đồi, với chiều ngang(mặt đường QL 4B) dài hơn 40 m, diện tích 0,12ha sau khi được nhà nước giao ông đã quản lí và trồng cây trên đất. Năm 2008 cơ quan có thẩm quyền cùng chính quyền xã và huyện đo lại bằng máy chuyển từ sổ xanh sang sổ đỏ ngày 27/10/2010 cơ quan có thẩm quyền đã cấp cho GĐ ông, thuộc thửa 731, diện tich 4.099m2, tờ bản đồ số 01 địa chính xã Hợp Thành đo vẽ năm 2008, ông yêu cầu tòa án buộc chị Hằng trả lại diện tích đang tranh chấp. Với yêu cầu của ông Dinh thấy rằng:

    Trước hết ông Dinh khai: Khi cấp đất , ông và các thành phần trong đoàn gọi bà Dung ra hỏi, bà có nhận phần đất sau nhà không, nhưng bà Dung không nhận, vì ngoài lời khai của ông ra, ông không đưa thêm được tài liệu nào khác để chứng minh về lời khai của ông đã nêu trên.

    Qua quan sát trên sơ đồ diện tích đất lâm nghiệp(BL 15) cấp cho chủ hộ ông Dinh cho thấy: Vị trí lô 52 cấp cho ông Dinh là ở phía trên bờ tà li đường, bờ tà li rất cao và còn cách xa so với đường QL, xung quanh vị trí lô 52 có đường chấm bằng bút mực(...) có khoảng cách chiều nganh rất hẹp, chỉ bằng khoảng 1/6 của 2 thửa liền kề( lô 22 của ông Đoàn Năng Hưởng và lô 21 của ông Vũ Văn Tân), chiếu thẳng lên đỉnh đồi, dưới bờ tà li( gần vị trí lô 52) lại có nhiều hộ GĐ đanh sinh sống, trong đó có GĐ ông Dương Xuân Tuấn( bố đẻ chị Hằng) đã xây nhà và các công trình phụ trên đất từ năm 1993, đã được nhà nước cấp GCNQSD Đ lâu dài từ năm 2000, đằng sau diện tích đất ở còn có đất vườn để trồng cây, thể hiện qua các tài liệu kiểm đếm đền bù năm 2006 mở rộng QL 4B do trung tâm phát triển quỹ đất cung cấp( tại các BL 415 đến 427), đặc biệt diện tích đất tranh chấp ở chân bờ tà li đường, sát ngay phía sau nhà ông Dương Xuân Tuấn, điều đó chứng tỏ rằng: Diện tích đất tranh chấp không nằm trong lô 52, diện tích 0,12ha như ông Dinh đã khai trên.

    Mặt khác theo ông Dinh khai, ông đã sử dụng diện tích đất tranh chấp này từ năm 1996, nhưng thực tế ông sử dụng ra sao, quản lí như thế nào thì lại không thể hiện rõ, vì năm 2004 khi cơ quan có thẩm quyền làm thủ tục tách thửa 246( 154.1) cho Đoàn Năng Hùng, tại biên bản xác định ranh giới, mốc giới thửa đất và trích đo bản đồ địa chính khu đất( tại các BL 388,389) thể hiện các chủ sử dụng đất( phía tây) tiếp giáp chỉ có ông Vũ Văn Tân và bà Nguyễn Thị Dung, không thể hiện tiếp giáp ông Nguyễn Ngọc Dinh. Năm 2006 khi nhà nước mở rộng QL 4B tiến hành kiểm đếm đền bù, GĐ ông Dinh cũng chỉ kê khai các tài sản trên diện tích đất thuộc ông quản lí, không đề cập gì đến những tài sản trên diện tích đát tranh chấp hiện nay. Tại biên bản ghi lời khai 15/5/2014 của ông Vũ Văn Tân có thể khẳng định: Trích đo bản đò địa chính khu đất mang tên Đoàn Năng Hùng, các chủ sử dụng đất tiếp giáp: Phía tây tiếp giáp đất bà Nguyễn Thị Dung, đất ông Vũ Văn Tân( đất ông Tân phía trên đỉnh đồi, đất bà Dung ở phía dưới).

    Tại công văn số 651 ngày 23/5/2014 của UBND huyện Cao Lộc cho biết:" ... thửa 154 bản đồ 57, đo vẽ năm 1998, ngaoif số diện tích tách cấp cho ông Đoàn Năng Hùng ra, UBND chưa cấp và chưa tách cho hộ nào".

    Tại lời khai của ông Phan Thanh Tuân( khối trưởng khối 5 tại BL số 139), có khai"... GĐ ông giáp đất nhà ông Dinh, nhà ông Dinh giáp đất nhà bà Dung( mẹ đẻ anh Tuấn) 3 nhà liền nhau... nhà mới ông Dinh bây giờ là đất tà li nhà nước san xuống làm, theo ông đất đó là do nhà nước quản lí... đất chị Hằng san là bờ tà li nhà nước bạt xuống...

    Như vậy có thể khẳng định GĐ ông Dinh chưa bao giờ quản lí, sử dụng diện tích đất tranh chấp nêu trên.

    Còn theo chị Hằng và ông Dương Xuân Tường( người được chị Hằng ủy quyền) cho rằng: Vị trí lô 52 đất rừng cấp cho ông Dinh là ở phía trên bờ tà li đường, còn cách xa đất vườn nhà ông; còn diện tích đất tranh chấp hiện nay GĐ đã quản lí sử dụng từ năm 1970, đã xây dựng nhà ở từ năm 1993, năm 1997 GĐ đã thuê người trồng cây, trong đó trồng trên diện tích đất đang tranh chấp hiện nay, năm 2000 đã được cơ quan có thẩm quyền cấp GCNQSD Đ, đăng sau đất còn xây công trình phụ, phía sau nhà còn có đất vườn, đã trồng các cây ăn quả và các cây khác như thông, hồi...từ năm 1997, có ảnh chụp toàn cảnh khu nhà và các cây trồng khác kèm theo( BL 398). Năm 2006 nhà nước kiểm đếm lần 1m[r rộng QL 4B, bà Nguyễn Thị Dung đã kê khai các tài sản, các cây trên diện tích đất tranh chấp hiện nay, đã được nhà nước bồi thường, quá trình kê khai bồi thường như vậy, GĐ ông Dinh đều biết nhưng không ai có ý kiến gì, năm 2008 kiểm đếm lần 2, thời điểm đó bà Dung đã chết, GĐ ông Dinh mới đến tranh chấp.

    Lời khai của chị Hằng và ông Tường phù hợp với lời khai của ông Lô Văn Chang tại(BL 462) khai: " ... Trong thời gian năm 1997 được vợ chồng ông Tường, bà Ninh thuê phát đào hố trồng các cây hồi, thông... cho GĐ ông, trong đó có trồng cây ngay sau nhà ông Dương Xuân Tuấn."

    Từ những căn cứ nêu trên và các tài liệu có trong hồ sơ, có thể khẳng định, GĐ chị Hằng đã quản lí, sử dụng diện tích đất tranh chấp liên tục, công khai trong thời gian dài, nên yêu cầu của ông Nguyễn Ngọc Dinh đưa ra không có căn cứ để chấp nhận, cần bác yêu cầu của ông, giao diện tích đất đang tranh chấp cho chị Hằng tiếp tục quản lí, sử dụng.

    Xét yêu cầu của chị Hằng và ông Tường( người chị Hằng ủy quyền) hủy 1 phần GCNQSD Đ thửa 731, diện tích 4.099m2 thuộc tờ bản đồ địa chính số 01, xã Hợp Thành nawm2008 mang tên Nguyễn Ngọc Dinh, vì việc cấp GCNQSD Đ thửa 731 đã trùng lên diện tích đất của gia đình chị đang quản lí, sử dụng. Với yêu cầu của chị Hằng thấy rằng:

    Tại phiên tòa, bà Nguyễn Thị Hương đại diện UBND huyện Cao Lộc cho biết: Việc cấp GCNQSD Đ thửa 731 cấp trùng 1 phần của 7 hộ liền kề, về yêu cầu của chị Hằng và ông Tường đưa ra bà nhất trí và đề nghị hồi đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.

    Xét GCNQSD Đ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH00144 ngày 27/10/2010... thửa 731 cấp cho ông Nguyên Ngọc Dinh đã vi phạm các quy định về pháp luật đất đai đã quy định, cụ thể cấp chồng lên 7 thửa liền kề, trong đó trùng với thửa 154, tờ bản đồ 57, đo vẽ năm 1998 diện tích 1.945,4m2, trong diện tích đất cấp trùng này có 236,7m2 chị Hằng đang quản lí, sử dụng. Nên yêu cầu của chị Hằng đưa ra là có căn cứ, cần chấp nhận.

    Số diện tích thửa 731 cấp trùng với thửa 246 giữa ông Hùng và ông Dinh tự giải quyết, nên không xem xét. Các thửa liền kề khác còn lại, không liên quan gì đến việc giải quyết vụ án, nên không đề cập đến.

    Về các ý kiến của những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị Nụ, anh Nguyễn Thái Sơn và chị Nguyễn Thu Hằng đưa ra, xét thấy không có căn cứ để chấp nhận, những lí do không chấp nhận đã được phân tích rõ ở trên.

    Về án phí:

    Tại biên bản định giá tài sản ngày 25/3/2014, thì diện tích đất tranh chấp là 2.800.000đ/m2...(BL 142).

    Trước hết số tiền án phí của Dương Thị Hằng và ông Đoàn Năng Hùng, số diện tích đất tranh chấp là 34,27m2 x 2.800.000đ = 95.956.000đ. Do đó các đương sự thỏa thuận được với nhau , nên chỉ chịu 50% án phí. Cụ thể 95.956.000 : 2 = 4.797. :2 = 1.200 tròn số đã thể hiện trong biên bản hòa giải ngày 23/5/2014 ( BL 494 ). xác nhận ông Hùng đã nộp 200.000, số còn lại ông Hùng phải nộp tiếp.

    Đối với số tiền án phí của ông Nguyễn Ngọc Dinh, do yêu cầu của ông không được chấp nhận, nên ông phải chịu khoản tiền án phí giá ngạch theo quy định của pháp luật. Cụ thể diện tích đất tranh chấp là 236,7m2 x 2.8000/m2 = 6.62760.0 = 20.000.000+4% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt quá ( 262.760.000 đ x 4% = 10.510.000đ + 20.000.000đ) = 30.510.000đ trừ đi số tiền án phí mà ông Dinh đã nộp 200 nghìn đồng, số tiền còn lại 30.310.000đ ông phải nộp tiếp.

    Về số tiền chi phí đinh giá tài sản : do các đương sự không thống nhất được về giá, nên các đương sự cùng phải chịu số tiền chi phí này theo quy định của pháp luật. Cụ thể số tiền mà các đương sự đã nộp để thẩm định, định giá là 9.200.000đ, trong đó : Đoàn Năng Hùng đã nộp 2.000.000đ, Dương Thị Hằng đã nộp. 3.700.000đ Nguyễn Ngọc Dinh nộp 3.500.000đ ( cả lần sơ thẩm ngày 11/6/2013). trong số tiền này anh Hùng tự nguyện chịu 2.000.000đ đã được thể hiện tại biên bản hòa giải ngày 23/5/2014, việc tự nguyện của anh Hùng là hợp lí, vì diện tích đất tranh chấp so với anh Hùng ít hơn ông Dinh và chị Hằng, số tiền còn lại 7.200.000 ông Dinh và chị Hằng cùng phải chịu. Cụ thể mỗi người phải chịu là 7.200.000:2 = 3.600.000đ, như vậy ông Dinh còn phải trả lại cho chị Hằng 100.000đ, nhưng ông Tường ( người được chị Hằng ủy quyền ) tại phiên tòa không yêu cầu ông Dinh trả, nên cần chấp nhận.

    Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạng luật định.

    Vì các lẽ trên:

                                                                                                        QUYẾT ĐỊNH:

    Áp dụng điều 32;khoản 1 điều 105 điều luật đất đai 2003 và điều 688 bộ luật dân sư; các điều 177;220 bộ luật tố tụng dân sự.

    1 Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự: chị Dương Thị Hằng trả lại cho ông Đoàn Năng Hùng diện tích 34,27m2 đất thuộc 1 phần thửa số 246 ( 154.1), tờ bản đồ số 57, bản đồ địa chính xã Hợp Thành huyện Cao Lộc tỉnh Lạng Sơn đo vẽ năm 1998, có các cạnh BCĐE, trong đó cạnh BC dài 3,06m, BE dài 13,58m, cạnh CD dài 12,52m và 1,1m, cạnh DE dài 1,76m ; chị Hằng có trách nhiệm tháo dỡ bức tường trên diện tích đất tranh chấp; số tiền san ủi chị Hằng đã bỏ ra, chị không yêu cầu tòa án giải quyết ( có trích đo địa chính khu đất kèm theo).

    Áp dụng điều 32; khoản 4 điều 50; khoản 1 điều 105; khoản 1 điều 136 luật đất đai năm 2003 sửa đổi năm 2009;điều 176 bộ luật tố tụng dân sự và các điều 192,193,205,688 của bộ luật dân sự năm 2005.

    2 Sử bác yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Ngọc Dinh yêu cầu chị Dương Thị Hằng phải trả cho ông 236,7m2 đất rừng sản xuất thuộc 1 phần thửa đất số 154, tờ bản đồ số 57,địa chính xã Hợp Thành đo vẽ năm 1998, tại km 1 + 500 , khối 5 Hợp Thành Cao Lộc Lạng Sơn vì không có căn cứ.

    Tạm giao diện tích đất tranh chấp 236,7m2 ( mà chị Hằng đã san ủi ) tại km1+500 khối 5 Hợp Thành Cao Lộc Lạng Sơn thuộc 1 phần thửa đất số 154, tờ bản đồ số 57 địa chính xã Hợp Thành đo vẽ năm 1998 có các cạnh ABEFGH, trong đó cạnh AB dài 18,85m, cạnh BE dài 13,58m, cạnh EF dài 6,81m, cạnh GE dài 10,04m, cạnh GH dài 2,98m, cạnh HA dài 9,83m cho chị Dương Thị Hằng được quản lí sử dụng ; chị Hằng có trách nhiệm đến liên hệ với các cơ quan có thẩm quyền để làm thủ tục cấp GCNQSDĐ theo quy định ( có trích đo địa chính khu đất kèm theo ).

    Áp dụng khoản 1, điều 48 nghị định 181; điểm b,c khoản 3 điều 14, NĐ 88/2009 của trính phủ; khoản 1,2 điều 32a bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011.

    3 Tuyên hủy 1 phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thửa 731, tờ bản đồ 1, đo vẽ năm 2008 tại Núi Đầu, khối 5 Hợp Thành Cao Lộc Lạng Sơn, diện tích 4099m2, do UBND huyện Cao Lộc cấp ngày 27/10/2010, mang tên hộ ông Nguyễn Ngọc Dinh và bà Trần Thị Nụ vì đã cấp trùng lên 7 thửa đất liền kề trong đó ( có 236,7m2 nằm trong tổng số diện tích 1945,4m2 thửa 154 do thửa 731 cấp trùng) mà chị Hằng đã quản lí sử dụng.

    4 Về án phí:

    ÁP dụng khoản 6, khoản 11 điều 27 pháp lệnh số 10 ngày 27/2/2009 của quốc hội quy định về án phí, lệ phí của tòa án.

    - ông Đoàn Năng Hùng phải chịu án phí dân sự ngạch giá là 1.200.000đ để xung vào công quỹ nhà nước. xác nhận anh Hùng đã nộp 200.000đ theo biên lai thu tiền tạm ứng số AA/2011/00134, ngày 8/5/2013 tại chi cục thi hành án huyện Cao Lộc, số tiền còn lại là 1.000.000đ ông Hùng phải nộp tiếp.

    - chị Dương Thị Hằng phải chịu án phí dân sự giá ngạch là 1.200.000đ để xung vào công quỹ nhà nước

    Áp dụng khoản 4 điều 27 pháp lệnh số 10 ngày 27/2/2009 của quốc hội quy định về án phí, lệ phí của tòa án.

    - ông Nguyễn Ngọc Dinh phải chịu án phí dân sự giá ngạch là 30.510.000đ để xung vào công quỹ nhà nước. xác nhận ông Dinh đã nộp 200.000đ theo biên lai thu số: AA/2010/001577 ngày 14/12/2011 tại chi cục thi hành án dân sự huyện Cao Lộc, số tiền còn lại là 30.310.000đ ông Dinh phải nộp tiếp.

    5. Về tiền chi phí định giá.

    Áp dụng khoản 2 điều 140 của bộ luật tố tụng dân sự .

    - Ông Đoàn Năng Hùng tự nguyện chịu số tiền chi phí định giá là 2.000.000đ( anh Hùng đã nộp đủ tại BL430).

    - Ông Nguyễn Ngọc Dinh phải chịu số tiền chi phí định giá là 3.500.000đ( ông Dinh đã nộp đủ tại BL 93 và BL 429).

    - Chị Dương Thị Hằng tự nguyện chịu số tiền chi phí thẩm định giá là 3.700.000đ( chị Hằng đã nộp đủ tại BL 429 và BL 500).

    Báo cho các đương sự có mặt biết , có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, còn các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản sao bản án của tòa án.

    Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dan sự được thực hiện theo quy định tại điều 30 luật thi hành án dân sự.

    Nơi nhận                                                                                                       TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM

    - TAND Tỉnh                                                                                                             Thẩm phán - Chủ tọa

    - VKSND huyện

    - Chi cục THA huyện

    - Các đương sự

    - Lưu hồ sơ                                                                                                                             Liễu Văn Bình

    Trên đây là hồ sơ cấp sơ thẩm của tôi. Rất mong các luật sư cùng các bạn đọc tư vấn giúp đỡ để chuẩn bị cho đợt phúc thẩm sắp tới của tôi được thuận lợi hơn. Trân trọng cảm ơn!

     
    55028 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận